HÒA LẠC HÒA BÌNH-EXPRESSWAY
Chào mừng bạn đến với diễn đàn trang web Hòa Lạc - TP.Hòa Bình Expressway !
HÒA LẠC HÒA BÌNH-EXPRESSWAY
Chào mừng bạn đến với diễn đàn trang web Hòa Lạc - TP.Hòa Bình Expressway !
HÒA LẠC HÒA BÌNH-EXPRESSWAY
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.


 
Trang ChínhTìm kiếmLatest imagesĐăng kýĐăng Nhập
Thiết kế name card, độc đáo kết hợp màu sắc ấn tượng
In card visit nhanh, in card visit rẻ đẹp, in card visit ở Hà Nội
Chuyên photo A4-A0, photocopy giá rẻ
In nhanh poster đẹp tại Hà Nội
Nơi in tờ rơi, tờ gấp màu nhanh nhất tại Hà Nội
in card công ty xây dựng Trần Đăng Ninh
In màu a4-a3, photo coppy, giá rẻ năm 2014 tại Trung Hòa
in màu a4-a3 laser siêu rẻ, siêu đẹp, đặc biệt giá cả rất hợp lý — Hà Nội
Làm kỷ yếu, in kỷ yếu số lượng ít đẹp và trang nhã, thiết kế chuyên nghiệp chất lượng cao tại Hà Nội
In kỷ yếu giá rẻ nhất Hà Nội
In kẹp file, kẹp tài liệu giá cả cạnh tranh
Đường cao tốc Chongzun
Autorun Virus Remover 3.1.0422 - Ngăn chặn mọi virus autorun từ USB
Microsoft Security Essentials 2.1.1116.0 Final - Trình diệt virus miễn phí từ Microsoft
5 Antivirus miễn phí tốt nhất của năm 2011
[Phần mềm + Hướng dẫn]Tích hợp Hiren's BootCD 14.1 Rebuild và mọi phiên bản vào menu boot vào Ổ Cứng (HDD) và RAM cho Windows 7 !!!
[Phần mềm + Hướng dẫn]Tích hợp Hiren's BootCD 14.1 Rebuild và mọi phiên bản vào menu boot vào Ổ Cứng (HDD) và RAM cho Windows 7 !!!
TuneUp Utilities 2010 9.0.2020.2 Final - Bộ công cụ tối ưu hàng đầu cho PC
Hot! Driver.Genius.Pro v10.0.0.761 Final _Crack No Virus ---Update driver mới nhất -» CHUẨN KO CẦN CHỈNH->NHANH TAY HỐT NÀO :D
Your Uninstaller! 7.4.2011.12 (Updated 08.11.2011) _ Gỡ phần mềm hàng đầu !!!





















Share | 
 

 Ngày mai tôi sẽ chết- Vũ Bằng

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Go down 
Tác giảThông điệp
Admin
Admin
Admin
Admin

Tổng số bài gửi : 1754
Điểm : 6794
Ngày tham gia : 22/12/2010
Tuổi : 39
Đến từ : Hà Nội
Level: 39 Kinh nghiệm: 1754%
Sinh mệnh: 1754/100
Pháp lực: 39/100

NGƯỜI ĐIỀU HÀNH
Phù hiệu: Ngày mai tôi sẽ chết- Vũ Bằng POLLICE

Ngày mai tôi sẽ chết- Vũ Bằng Empty
Bài gửiTiêu đề: Ngày mai tôi sẽ chết- Vũ Bằng   Ngày mai tôi sẽ chết- Vũ Bằng Icon_minitimeSun Feb 27, 2011 10:40 pm

Chương 1


Tôi viết bức thư này không biết anh có kịp xem không, nhưng tôi cứ viết
và ao ước anh sẽ đọc được trước khi ra lấy vé tàu đi Hà Nội. Anh ơi, anh
đừng đi Hà Nội nữa. Người bạn cũ của anh bây giờ đã già quá đi mất rồi.
Sau mười sáu năm trời không gặp mặt nhau, chính anh, tôi e rằng anh
cũng không nhận ra tôi nữa. Tôi chỉ còn là một đống giẻ rách không tên, ở
một chỗ ngoại ô hẻo lánh chung quanh toàn những tiếng búa đập trên đe
và những câu chửi rủa thô tục của những gái chơi trốn thuế. Buổi sáng
lúc trời còn mù mịt chưa trông rõ mặt người, những đoàn xe đen kịt từ ở
trên phố kéo về đem một hơi hướng khó chịu của Hà Nội đến cái giường tre
tôi nằm buổi trưa, ruồi đậu và muỗi kêu như thúc giục người ta dậy cầm
một cái gậy giang hồ để đi, bất cứ đâu; và buổi tối, những lời dọa dẫm
chém giết nhau không lúc nào ngớt làm cho một người bình tĩnh nhất cũng
đâm ra phẫn chí.

- Phải đi! Ta nhất định phải đi!...

Biết bao nhiêu lần tôi đã nói thế với tôi rồi? Chao ôi, không có một lần
nào, không một lần nào tên bạn khốn nạn này của anh lại dám đem thực
hành ý kiến. Đó là bởi vì mười năm nay y mắc phải một bệnh nan y, một
bệnh giữ người ta lại ở chân giường không cho biết những phương trời mới
lạ: đó là bệnh nghiện.

Bây giờ mỗi khi trong xóm có ai xa lạ đến hỏi thăm tôi hay là tò mò muốn
biết chủ nhân của cái nhà lá ở chỗ "Ba con chó đá" đi vào:

- Cái ông bung bủng ăn thuốc ấy làm nghề gì ấy nhỉ?... thì trẻ con và
đàn bà chung quanh đó, không động một cái gân mặt, đều trả lời thản
nhiên rằng:

- Ấy, nghe đâu như ông ấy viết sách viết báo bán cho nhật trình thì phải.

Anh ơi, người ta còn có thể trả lời khác thế làm sao được? Bạn anh mới
có bốn mươi hai tuổi - tuổi người ta vui vẻ bước vào đời, lòng đầy ****
hót - vậy mà đã già lắm, yếu lắm, chán nản lắm rồi anh ạ. Bây giờ, những
buổi sáng trời, ngồi chống tấm phên lên nhìn ra cái ao tù đằng trước
mặt, tôi tiếc cái thời kỳ trẻ tuổi như một người không may hồi cố đến
một bạn tình có thủy không chung. Những lúc ấy trái tim tôi se lại. Một
vị gì cay cay mà mặn mặn đến với lưỡi tôi: tôi tưởng như mình ốm nặng
lắm rồi, chỉ ngày mai sẽ chết không còn thuốc gì chữa nổi. Thì tôi lại
càng thương mẹ tôi và các em tôi - hiện bây giờ đã nằm yên trong một cái
nghĩa địa một tỉnh gần bờ bể, có lẽ lúc này đây rét lắm ở trong những
cái mộ không bao giờ cất lại. Ôi, mẹ tôi và hai em gái của tôi đã cầu
Trời khấn Phật cho tôi biết bao nhiêu. Họ làm việc gì, họ trông mong gì
là đều làm việc và trông mong cho đứa con này, cho thằng anh này sẽ gặp
sự may mắn trên đường đời.

Tạng tôi vốn ốm nên mẹ tôi thương tôi lắm. Nhất là em gái thứ hai tôi
thì lại càng xót xa tôi. Tôi còn nhớ trước hôm nó chết hai ngày, vào lúc
hoàng hôn nó có dắt tôi đến bên cạnh một gốc nhãn mà bảo tôi:

- Đêm qua, em sốt lắm và ho suốt cả đêm. Em xem chừng không sống được.
Vậy từ hôm nay anh cầu cho em đi, anh cầu cho em "đi" một cách nhẹ
nhàng. Còn em, nếu em chết, em sẽ không bao giờ quên anh. Em phù hộ anh
và sẽ cầu cho anh may mắn hơn thày, không khổ về tinh thần và vật chất.
Nhưng ngay bây giờ em còn sống và nghe được lời anh, anh hãy nguyện với
em sẽ không bao giờ làm cái nghề bán văn buôn chữ nữa!

*

* *

Tôi vốn không phải người Hà Nội. Dòng họ nhà tôi từ bao nhiêu đời nay
vẫn sinh cơ lập nghiệp ở làng Kiến Chính thuộc Nam thành. Mẹ tôi đan
lưới. Gió bể ngày đêm thổi hút vào nhà tôi và những cái lưới ấy bay phần
phật. Hai em tôi giúp đỡ mẹ tôi trong những việc đan lờ tết chỉ và giúp
hai bữa cơm trong nhà. Bởi vì nhà tôi thanh bạch lắm, không nuôi đày
tớ. Cả ba người làm ngày đêm mới tạm được nuôi nhà: tôi đi học tốn kém
nhiều, còn thày tôi dăm bảy tháng mới có một cái bổng một vài chục bạc.

Tôi gọi là cái bổng bởi vì thày tôi không sống hẳn vì nghề. Thày tôi
sinh vào giữa lúc chữ nho tàn cục, phải kéo lê cái sống tồi tàn trên
mảnh đất này, lúc buồn thì dạy mấy đứa trẻ học vài cái chữ nho để họa là
có truyền được cho con cháu cái đạo của thánh hiền Khổng Mạnh.

Những đứa trẻ ấy đều là con nhà nghèo cả, họa hoằn mới có một hai trẻ
sang để tạ Ơn. Thày tôi, vì vậy phải kiếm thêm bằng cách viết bài cho
một tờ nguyệt báo xuất bản ở Hà thành - hồi ấy ở Hà thành có báo viết
vừa bằng chữ nho, vừa bằng chữ quốc ngữ - để kiếm thêm. Nhưng gọi là
kiếm thêm đó mà thôi chứ thực thì có khi đến một năm thày tôi mới được
nhà báo đưa biếu một vài chục bạc (hồi ấy người ta không gọi là tiền
nhuận bút nhưng là tiền trầu nước).

Cuộc đời ở cái làng hẻo lánh này cứ đi như thế, đều đều tựa ngọn triều ở
trước nhà tôi ngày xuống đêm lên không có một sự gì thay đổi. Mẹ tôi cứ
đan lưới bán, thày tôi cứ viết bài đăng ở Tân Văn, còn hai em tôi thì
vừa mạng lưới vừa nhìn ra xa xa ngoài bể khơi xem những con thuyền đánh
cá đi đi lại lại như những con mộng đẹp.

Cho đến năm tôi hai mươi tuổi. Một hôm, thày tôi đi mất tích. Mẹ tôi mở
cửa trông ra bể đợi, nhưng xuân đi, hạ đến rồi thu, rồi đông, thày tôi
vẫn tuyệt vô âm tín, hàng xóm không ai biết cả. Từ đó, đêm cũng như
ngày, tiếng hát của biển khơi vọng vào nhà tôi buồn ray rứt cả ruột gan.
Nhà tôi sa sút. Em gái lớn tôi đi lấy chồng, nhưng mới được mấy tháng
thì chết vì sinh nở.

Chính đêm đi đưa đám nó về, ba mẹ con tôi ngồi đốt đèn lên để than thở
với nhau thì có người gõ cửa rất gấp và đem vào một bức thư. Tôi còn nhớ
đêm ấy mưa to lắm. Gió bể thổi heo hút, người đàn ông kia lạnh bợt hẳn
mặt đi và ướt lướt mướt cả từ đầu đến gót, nhưng mẹ con tôi cũng không
thể giữ người ở lại, dù chớp bể mưa nguồn, sấm sét nổi lên tứ phía như
thể trời lúc ấy tức giận đến cùng cực vậy.

Từ đấy tôi hiểu rằng thày tôi không còn bao giờ trở về đến đất này.

Mẹ con tôi sống heo hút với nhau, không mong đợi điều gì nữa, nhưng vẫn
liếc nhìn ra những con thuyền rẽ sóng đi... và chúng tôi lại tưởng là
thuyền ai đi ngày trước.

Trong khi ấy, thì mẹ tôi già héo đi lúc nào không biết. Cái tay đan lưới
ở dưới ánh đèn dầu mỗi ngày mỗi chậm. Giọng nói của người cũng yếu đi,
tuy đã lâu mẹ tôi ít hẳn nói cười. Ôi, người đàn bà ấy cắn răng mà chịu
đựng số mệnh, không than không tiếc nhưng chỉ mong có một điều rằng: tôi
là đứa con cuối cùng của họ; tôi phải giữ lấy dòng họ đừng cho tuyệt
diệt. Phải lấy vợ, phải nghĩ chuyện nối dõi mai sau, còn đến việc bán
văn buôn chữ thì mẹ tôi và em tôi khẩn khoản tôi chớ có nên theo đuổi
làm gì. Bởi vì, mẹ tôi đã nhất định tin như thế rồi, không ai có thể làm
lay chuyển lòng người được: mẹ tôi cho rằng thày tôi không những lao
tâm lao lực vì văn chương, mà văn chương lại còn là nguyên nhân chính
trong việc thày tôi đi mãi, không bao giờ về nữa. Tôi không nhớ rằng lúc
ấy tôi có tin những lời nói của mẹ tôi không, nhưng tôi biết rằng tôi
có hứa sẽ vâng theo lời mẹ.

Và tôi đã hứa cả với em tôi trước khi nó chết, nói với tôi bên gốc nhãn.
Từ đó, ngày nọ đuổi ngày kia, năm tháng cứ dần trôi như nước bể trút
sang những sông con, không bao giờ trở lại cùng bể nữa.

Tôi vuốt mắt cho mẹ và cho em, và cũng như nước bể, những lời hứa không
còn ở trong trí óc của người trẻ tuổi lúc ấy có bao nhiêu nhựa sống căng
trong mạch máu.

Không còn bận gì đến gia đình nữa tôi bán cả cơ nghiệp đi ra sống ở Hà
thành. Tôi cho rằng phàm người thanh niên nào biết tự trọng, muốn sống
cho ra sống, muốn làm nên sự nghiệp to tát thì không thể không ở Hà
thành được: còn có chỗ nào đẹp đẽ bằng, còn có chỗ nào sống đầy đủ bằng?

Tôi thuê một cái gác nhỏ, và cũng như bao nhiêu "muỗi cỏ" ở các nơi bay
về theo đuổi ánh sáng đèn, tôi quyết phải làm nên sự nghiệp gì không để
xấu hổ cho dòng họ mình là một dòng họ nho phong. Thoạt đầu, cuộc đời
tôi càng thấy khó bao nhiêu tôi càng say mê sống. Không hiểu vì sự say
mê ấy hay vì cái nghiệp mà Thượng Đế bắt tôi phải chịu hoặc vì cái bản
tính thanh niên xưa nay vẫn ham thích làm những điều mà người khác ngăn
cấm mình, tôi quyết định sẽ trở nên một văn sĩ chỉ viết một tác phẩm mà
ai ai cũng sợ.

Ở Hà thành, có bao nhiêu người đã nuôi những cái mộng như thế? Có lẽ đến
hàng ngàn. Hàng ngàn người lúc nào cũng tin rằng bị Thượng Đế đọa đầy.
Họ có khi đói khổ đến vô chừng, nhưng lúc nào cũng vui vẻ mà gậm tương
lai vì họ tin rằng chính họ, họ sẽ ôm quả đất vào trong tay, họ muốn là
họ được.

Không có ai bây giờ chạy đến mời ta ư? Không cần. Ta hãy ca tụng lẫn
nhau đã bởi vì người bạn có thể thiếu cơm, ta không thể để cho hắn thiếu
tài. Những người làm nên sự nghiệp khi xưa đều thế cả.

Tôi nghĩ vậy cho nên tôi nhìn ánh sáng kinh thành rất say mê. Tôi mơ
tưởng đến những tác phẩm sắp viết và tôi ngửng lên nhìn trời. Bầu trời
hôm nào cũng nhiều sao. Tôi thấy ngôi sao bản mệnh của tôi sáng lắm. Tôi
lại càng tin tưởng ở sức huyền bí của Thượng Đế, tôi lại càng tin ở tài
tôi trong khi bao nhiêu thanh niên khác, đầy tài đầy lực - hầu hết cũng
bay ở phương khác về như tôi - bị ngã xuống hố không kịp chào cha mẹ
anh em lần cuối.

Bây giờ ngồi mà nghĩ lại tôi thương những chiến sĩ vô danh đó không biết
bao nhiêu, tôi thương cả những bực cha mẹ Ở tỉnh nhỏ nuôi con khôn lớn
cho ra kinh thành để tạo nên sự nghiệp mà kết cục thì họ chết trơ trọi ở
trên những cái giường lạnh lẽo trong những gian phòng tối tăm. Những
lúc ấy xin thú thực tôi không nghĩ gì tới họ. Sự đắc thắng làm cho tôi
say mê như một thứ rượu nặng men: tôi nghĩ đến tôi nhiều quá, nghĩ đến
ngôi sao bản mệnh của tôi nhiều quá. Bao nhiêu máu, bao nhiêu óc của cha
mẹ tôi để cho và nuôi cho đến ngày nay, tôi đều đem trút ra trên những
dòng chữ hay như những cành hoa tươi trên mặt giấy. Tôi đã quên lời hứa
với mẹ và em, đã không lấy vợ - hay nói cho đúng, tôi đã lấy vợ nhưng
không lấy vợ như mẹ và em tôi đã tưởng: vợ tôi là sự nghiệp văn chương
vậy.

Cái gác tôi trọ nào đâu có những thi vị như gian nhà lá ở trên bờ biển
Kiên Chính khi xưa? Đây chỉ là một gian nhà gác xép bốn bề bưng kín như
thể một cái mộ cất ở lưng chừng giời. Một cái kính vỡ ở đây, những đêm
đông lạnh lẽo gió lùa vào rét quá, tôi lấy giấy nhật trình bịt lại. Cái
bàn khập khiễng kia suốt đêm có tiếng mọt nghiến gỗ đến kinh người, thực
chẳng khác những lời oán hận bất diệt của một hồn oan vậy. Bao nhiêu sự
thiếu thốn, cơ cực ấy, tôi đều coi thường cả bởi vì tôi đã thấy ánh
sáng đến với tôi rồi. Tôi đã tìm thấy cái bí quyết của sự đắc thắng nên
dù là buổi chiều buồn, đứng ở cửa gác nhìn xuống đường chỉ có mưa rơi
trên những cái mái nhà ám khói, tôi cũng thấy là nên thơ, là đẹp.

Thế rồi, tác phẩm đầu tiên của tôi, ra đời. Không anh ạ, anh đừng tưởng
rằng hy vọng của tôi đến thế là tột bực đâu; tôi được hoan nghênh đến
nhiệt liệt nhưng tôi vẫn chưa lấy gì làm thỏa. Chỉ trong có mấy ngày tôi
đã từ một gã vô danh nhẩy lên chiếm một chỗ ngồi trong văn giới đáng
cho những bậc lão thành thèm muốn. Các báo viết bài khen tác phẩm của
tôi; các nhà xuất bản tranh nhau mời tôi viết; có nhiều nhà văn nhà báo
có tên tuổi lại hỏi dò được địa chỉ của tôi viết những bức thư thật dài
đến khuyến khích và mong cho tôi sẽ tiến mãi trên con đường sự nghiệp.

Tôi sướng quá, muốn khóc lên. Khóc vì mình đã thắng, chứ không phải khóc
vì bây giờ mình đã được chút tên tuổi rồi mà cha mẹ không còn sống để
chia vui. Luôn mấy hôm, người tôi như sốt, máu tôi chảy mạnh và dồn cả
về thái dương; tôi say mê danh vọng quá và từ hôm ấy văn chương cám dỗ
tôi như một mụ phù thủy cám dỗ một cô gái ngây thơ vậy.

Tôi viết quên cả ngày đêm, tôi viết trong những cơn sốt rét. Trong ba
năm, bảy tác phẩm ra đời, óc và máu tôi chan hòa trên mấy trăm nghìn
trang giấy bay khắp chỗ, từ thôn quê ra thành thị. Tôi là một người hữu
hạnh nhất trong văn đàn. Không ai tranh cướp được địa vị của tôi. Giàu
có và danh tiếng như thế chẳng là đã tạm đủ rồi hay sao?

Tôi vẫn ở trên căn gác xép bé nhỏ đã trông thấy tôi nổi tiếng. Tôi tiếp
những ông chủ báo, tôi có khi phải trốn những nhà xuất bản. Nhưng dù sao
tôi lúc nào cũng vẫn bất mãn về những tác phẩm của tôi đã xuất bản rồi,
tôi muốn có nhiều tiền nữa để trả thù những khi túng bấn và tôi ao ước
sẽ viết được một cuốn sách có thể gọi là một tác phẩm đánh dấu đời tôi
lại.

Bởi thế, tôi cũng không từ chối nhiều nhà xuất bản đâu. Tôi nhận gần hết
những lời yêu cầu của họ. Và bởi vì tôi là một người thực yêu nghề, tôi
không viết cẩu thả được mà tôi cũng không sai hẹn được. Thế là một
tháng hai mươi đêm tôi thức để viết cho đến khi xe điện leng keng những
tiếng chuông đầu tiên của một ngày. Những tiếng rao bánh tây nóng của
những đứa trẻ khi xưa cắp thúng đi bán từ lúc tinh sương chính là những
bài hát ru tôi ngủ vậy.

Ban ngày tôi lại viết. Tôi uống từng bát cà phê đặc để lấy sức, tôi hút thuốc phiện để thức đêm và tôi ốm vì đau ruột.

Nhưng không cần. Tiền và danh vọng! Miễn có nhiều là được. Tôi đi đi lại
lại ở trên cái gác xép của tôi vừa ngẫm nghĩ đến cái cốt truyện ngày
mai vừa đưa con mắt lơ đãng xem mảnh trời đẹp ở bên ngoài ra sao.

Trời đẹp thì đẹp lắm.

Chương 2


Bệnh đau ruột của tôi mỗi ngày một nặng thêm. Tôi vào nhà thương khám
thì bác sĩ bảo tôi rằng cần phải mổ. Ba tháng trời! Ba tháng trời nằm ở
trên giường bệnh, dập dìu những người bạn chuộng văn có một cảm tình
chân thật và những ông chủ xuất bản và chủ báo vì xã giao đến thăm nom,
tôi không viết được một tác phẩm gì thêm nữa. Vả lại bác sĩ chữa cho tôi
lại dặn đi dặn lại viên khán hộ không cho phép tôi làm việc gì mệt
nhọc, nên suốt ngày tôi chỉ đành nằm dán mắt lên trần nhà xem con mối
này đi đến đầu tường thì có rẽ không, hay con ruồi nọ bay đến đấy có đỗ
hay lại còn bay nữa.

Con ruồi, mà tôi đánh đố tôi, bay đến đấy thì đỗ thực. Có ai ngờ đâu
rằng, cũng như con ruồi, sự nghiệp văn chương của tôi đến đấy lại
ngừng... Bao nhiêu tiền tôi ăn dụm để dành được, chỉ một trận ốm ấy rủ
nhau đi hết. Tôi chưa viết được, lại túng bấn quá nên đành phải viết thư
hỏi vay tiền trước của mấy ông chủ báo. Tôi lại ra công viết, nhưng mỗi
ngày sức tôi một kém đi. Bệnh đau ruột đã làm cho tôi mất sức mạnh đi
rồi, những sự lo buồn vô căn cớ lại làm cho trí óc tôi cằn cọc đi. Bây
giờ cái cửa sổ ở căn gác xép của tôi đã để lộ một mảnh trời bạc mờ mờ
không đẹp như trước nữa. Tôi hay ngủ. Và mỗi khi ngủ ngày dậy thì tôi
lại thấy ê ẩm cả người: đầu rức mắt hoa, tôi có cảm giác bị một bệnh
phổi không bao giờ khỏi được. Những lúc ấy gian phòng tôi ở có một vẻ
lạnh lẽo, một mùi tanh tưởi. Người ta đã ít nói tới tôi. Tôi hay nghĩ
ngợi viển vông - và tôi đã đoán trước cái ngày mai ra thế nào. Ôi là hắc
ám, cả ngày mai ấy. Tôi thấy cái trần nhà hình như đổ dần xuống người
tôi. Mồ hôi tôi toát ra, tôi giương mắt lên nhìn kỹ thì thấy có hàng
trăm trái núi không cây cỏ từ trên mây rơi xuống đầu tôi và đè lấy tôi.
Tiếng muỗi vo ve trong gác lúc ấy có vẻ là những tiếng kèn đám ma đi
tiễn một danh vọng về chiều. Tôi lấy tay lau vội mồ hôi ở trán và nghĩ:
"Ta sẽ chết ngày mai, ở trong một xó xỉnh, chết như một con gián, không
có một người nào biết".

Anh ơi, anh đã đọc Le Horla của Guy de Maupassant rồi đấy nhỉ. Có là
tôi, có là một người bệnh như tôi, kẻ đọc sách mới có thể biết cái tâm
trạng của tác giả đã tả trong cuốn sách xác thực như thế nào. Tôi muốn
đốt hết cả. Đốt sách, đốt vở, đốt nhà. May mà trời lại còn cho tôi lại
một ít trí khôn nên cái việc càn rỡ mà tôi nghĩ đó, tôi không bao giờ
làm cả. Tôi chỉ vội vàng mặc áo, đi không đóng cửa, đi đến chỗ nào cũng
được, miễn là có sự hoạt động để mình lại biết với mình rằng: "Ta còn
sống đây, chưa chết!".

Phải, tôi chưa chết anh ạ, nhưng kể từ khi ấy tôi biết là tôi đã thua
rồi. Nàng phù dung hay hiện thành mỹ nữ khỏa thân để quyến rũ ta trong
những giấc mơ đen đã thắng và sẽ không bao giờ tha tôi nữa. Tôi gục
xuống ở dưới chân nàng và tôi thấy bao nhiêu lò xo ở trong thân thể tôi
đã gãy. Nhưng dù sao, người ta cũng phải sống... Bởi vì tôi vẫn còn tin -
chao ôi, cái tin ấy là cái tin của người mắc bệnh phổi đến thời kỳ thứ
ba vẫn còn tin rằng mình khỏi, cái tin của một người đàn bà đã hết thời
xuân sắc vẫn còn tin rằng mình bóp được những trái tim của những chàng
trai trẻ tuổi.

Đến đây, tôi phải xin thú nhận với anh một tội, một tội làm cho tôi đau
đớn, lúc nào cũng như đè lên linh hồn. Có lẽ đó là một sự xấu hổ lớn
nhất trong đời nghệ sĩ của tôi. Những đêm khuya nằm cuộn tròn trong
chăn, tay cái dọc tẩu, tay cái tiêm lăn điếu thuốc để cho vào nhĩ tẩu,
tôi thấy buồn một cái buồn thấm thía não nùng. Tôi thương cha mẹ tôi và
các em tôi, tôi thương tôi và tưởng tượng mình là một người thiệt thòi
nhất, không được Thượng Đế đền bù gì cho cả. Những lúc ấy, tôi không dám
thù hằn ai hết; tôi không thù những ông chủ báo hay những ông chủ xuất
bản như những bạn đồng nghiệp tôi đã thù; tôi không thù Trời là đấng tối
cao tối đại lúc nào cũng thương xót chúng nhân. Sự xấu hổ nhất đời của
tôi là đây: tôi thù cái nghiệp văn chương báo chí và tôi thấy lợm giọng
vì nghề đó có những lúc đến với tôi ghê tởm quá. Tôi nói thế mà thôi,
chứ thực ra tôi không hiểu tại sao tôi lại có thể ghét nghề văn như thế -
nghề văn, ôi! Cái nghề cao quý đã đưa tôi đến nghề báo để cho nghề báo
hại tôi đến thế này, nhưng dù sao cũng là một nghề mà tôi đã hy sinh cả
thân thể và có khi cả tiền bạc, một nghề mà từ năm hai mươi tuổi tôi coi
như một vị nữ thần, một mối an ủi, một sự che chở vậy.

Từ đó, tôi kéo lê cuộc đời của tôi hết tiệm này sang tiệm khác. Tôi ngủ
đêm ở những nơi ca viện đến khi mọi người đi làm sáng về rồi tôi mới
dậy. Tôi nằm nhắm mắt như một cái xác chết ở trong những cái buồng bẩn
thỉu, cứ mỗi khi bồi tiêm, tiêm xong một điếu lại xoay dọc khi đập vào
người tôi đánh thức tôi dậy cho tôi hút. Thuốc phiện không còn là một
cái thích nữa đối với tôi; tôi càng hút say lại càng buồn; những khi say
đến cùng độ, tôi thường gắt gỏng với mọi người trong tiệm.

Chao ôi, những chuyện xa gần của hiện tại và dĩ vãng đã vò xé lòng tôi;
tôi khóc cha mẹ tôi và em tôi, tôi không muốn nghe một người nào nói
chuyện ở bên tai tôi cả. Nhất là chuyện văn chương, chuyện báo chí thì
tôi lại thấy kinh tởm đến vô cùng.

Tôi không đọc một quyển sách, tôi không xem một tờ báo. Mực đối với tôi
có một mùi nồng như một mùi thuốc tím ở nhà thương. Tôi ít nhất phải
nghe thấy ai nói "Cái tờ ấy mới viết mà đã làm cho mọi người chú ý" hay
"Nghệ thuật của ông nọ tinh vi lắm, làng văn hiện đại có thể kể làm một
hy vọng được".

Anh ơi, anh thử nhắm mắt lại mà tưởng tượng xem tôi thế nào. Anh không
thể tưởng tượng được, vì anh có là tôi đâu mà biết được sự đau khổ của
một kẻ chỉ sống vì văn chương cùng cán bút mà đột nhiên lại sợ cán bút
không dám cầm, thù ghét văn chương đến nỗi không dám nói.

Cũng may, cái bệnh ấy tôi chỉ mắc phải có ít lâu thì khỏi. Đến bây giờ
tôi cũng chưa hiểu nó đã khỏi bằng cách gì; chỉ biết rằng đến mùa xuân
năm ấy tôi tự nhiên thấy có can đảm cầm lấy bút viết một bài xã luận cho
một tờ báo văn chương, chính trị.

Bài ấy đối với dư luận ra thế nào, tôi không rõ. Riêng tôi, tôi thấy
rằng lúc cầm bút viết, tôi có vẻ một người đàn bà môi đã thôi đỏ, răng
đã thôi bóng mà má thì răn, mà mắt thì mờ, một buổi sáng hiền lành ngồi
giở gương ra điểm phấn thoa son lại. Những nét răn trên má và ở đuôi
mắt, son phấn không thể che đậy được. Nhưng dù sao cái nhan sắc thuở xưa
vẫn còn ở đầu mắt cuối mày: mùa đông dù u tối đen buồn đến đâu cũng
không thể che lấp hết những cái đẹp não nùng đậu ở trên ngọn nước hay
cành cây của một mùa thu êm ái.

Cái danh vọng của tôi có thể cứ như thế kéo dài ra thêm chút nữa nếu không có việc này xảy ra:

Một ngọn gió mới từ phương xa thổi lại, bứt hết cả những cái lá đau ngực
của cây văn chương buổi cũ. Người ta cải cách hết: cải cách từ tư tưởng
cho đến cả giọng văn; người ta cải cách lối viết đến cách trình bày ý
nghĩ. Thiên hạ trọng những người trẻ có bầu máu nóng, độc giả ưa những
chuyện hợp với tình trạng mới của xã hội nước nhà. Tôi không theo kịp
được nữa rồi bởi vì tôi đã đứng im lâu quá, hay là tôi không biết chiều
theo thị hiếu của quốc dân bạn đọc? Đã đành là muốn được nổi tiếng bây
giờ, người ta phải có cơ quan dư luận trong tay, người ta phải quảng
cáo, người ta cần làm ầm ĩ... Anh ơi, anh quý của tôi ơi, bạn anh đã
đến, nhưng đã đến một cách im lặng quá. Y không có cơ quan dư luận nào
trong tay cả, bởi vì bao nhiêu chủ báo đã bỏ y rồi; y bắt chước những
bực tiền bối chỉ trông vào ở sức mình, ở tài mình mà thôi. Một nhà xuất
bản mới ra in một cuốn sách của y vừa soạn. Không có một nhà phê bình
nào nói đến. Y tặng họ một cuốn. Y bị người ta viết một bài chê bai.
Cuốn sách ấy ế, độc giả viết thư về trách. "Thế rồi thì là hết. Như lời
nhạc sĩ Ludovic Breitner đã nói, cái vòng thắt chặt lại, không thương
xót".

Đến hôm nay thì tôi biết hết, không còn lầm lẫn nữa. Quốc dân không còn
nhớ đến tên tôi. Những nhà xuất bản mở cửa mời những ông văn sĩ mới. Còn
tôi, tôi, một nhà báo kiêm nhà văn đã già rồi, đã gãy nát rồi, còn ai
nhớ tưởng làm gì nữa? Tôi không có ích cho một tờ báo xoàng xoàng; văn
tôi không có nhựa nữa; đầu đề những bài báo của tôi không bịp bợm nữa.
Tôi là một anh nhà văn đau ốm và mất hết can đảm: danh vọng tôi đã về
chiều rồi còn đâu! Tuy thế, lúc nào tôi cũng vẫn tin tưởng rằng văn tôi
nếu không hoàn toàn có ích hẳn thì cũng không có hại cho người đọc. Tôi
biết cái ý nghĩa cao cả của văn chương và tôi còn như thấy hàng vạn độc
giả cả nam lẫn nữ say sưa đọc tôi, mê tôi và còn như đang uống linh hồn
tôi trên những trang sách, bài báo của tôi đã viết. Có ai lại dám nghĩ
rằng bao nhiêu những người đọc sách báo bây giờ lại cho lễ nghĩa và lẽ
phải là những thức không cần dùng đến nữa.

Tôi đã biết những tiếng hoan hô chúc tụng và bây giờ tôi cô độc. Tôi đã
sống một thời rực rỡ mỗi ngày có hàng chục người muốn xem mặt và tiếp
chuyện; tôi đã làm cho một tờ tuần báo đứng vững cho đến bây giờ và có
một thế lực vô song chỉ vì tôi đã ưng thuận ký tên vào một thiên mạo
hiểm phiêu lưu tiểu thuyết... Vậy mà bây giờ tôi đói cơm đói thuốc, đành
chôn sống thân mình ở ngoại ô, trong một túp lều tối tăm rầu rĩ không
được mặt trời soi đến... Tất cả lờ lãi của cuộc đời hỉ xả của tôi đến
bây giờ rút lại chỉ còn lại một cái bàn đèn thuốc phiện và mấy chồng báo
nát. Còn đến tiền thì tuyệt nhiên không có đồng nào; ăn bữa sớm lo bữa
mai, một đứa ở cũng không có để sai đi mua thuốc.

Tôi nằm chôn ở đây đợi một cái gì không đến. Tôi đợi một sự may mắn xui
cho tôi có ít tiền để tôi cai thuốc phiện đi, tôi sẽ cố sức, một lần
chót, viết một tác phẩm cuối cùng, một tác phẩm mà tôi chắc sẽ hơn hết
cả một trăm cuốn sách tôi đã viết, có lẽ hơn hết cả những tác phẩm được
hoan nghênh nhất bây giờ.

Nhưng có lẽ đó chỉ là một huyễn mộng của một người không may trên đời.

Ngày mai, chỉ ngày mai thôi, tôi sẽ chết. Tôi chắc lúc chết mặt tôi sẽ
dữ tợn lắm, cho nên tôi không muốn anh nhìn tôi làm gì... Tôi sẽ "đi"
một mình, không có ai vuốt mắt cho cả, nhưng tôi sẽ sung sướng vì tôi
tin rằng đời này là tạm bợ, những người muốn thực tâm làm được sự nghiệp
to tát cần phải chịu sự thử thách kiếp này để đắc thắng kiếp sau.


Tiểu thuyết thứ bảy,
số 404, 405, 406, tháng ba, 1942

Về Đầu Trang Go down
https://duonghoalac-hoabinh.forumvi.com
 

Ngày mai tôi sẽ chết- Vũ Bằng

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
HÒA LẠC HÒA BÌNH-EXPRESSWAY :: GIẢI TRÍ :: VĂN HỌC-
Chuyển đến