1. Triệu Minh (Triệu Mẫn)
Đây nguyên là Hán danh của một cô gái Mông Cổ. Tên thật của cô là Minh
Minh Đặc Mục Nhĩ, con gái của Nhữ Nam vương, người chỉ đứng sau vua nhà
Nguyên, nắm hết quyền bính chính trị và quân sự cai trị toàn Trung Quốc.
Cô là nhân vật nữ chính trong Ỷ Thiên Đồ Long Ký, một cô gái đẹp như
hoa nở, không một cô gái Trung Hoa nào có thể sánh kịp. Tham vọng của
Triệu Minh rất lớn : muốn tụ họp bọn giang hồ, đắc biệt là phiên tăng
Tây Vực, triệt hạ sáu đại môn phái của Trung Hoa đang nuôi mộng chống
đối nhà Nguyên là Thiếu Lâm, Võ Đang, Cái Bang, Hoa Sơn, Không Động và
Côn Luân.
Lần đầu tiên cô đã bao vây được các thủ lĩnh của Minh giáo và đã nhốt
được Trương Vô Kỵ dưới hầm sâu. Nhưng Vô Kỵ vốn là thầy thuốc, võ công
lại cao cường, đã khống chế cô và "tra tấn" cô bằng cách dồn Cửu Dương
công vào gan bàn chân khiến cô ngứa ngáy, khó chịu phải đầu hàng, thả
chàng ra. Chính việc đó đã làm nảy sinh trong lòng cô mối tình ôn nhu
với chàng Trương Vô Kỵ. Cô đã đem Hắc ngọc đoạn tục cao tặng cho chàng
để chàng chữa trị vết thương cho tam sư bá, chuộc lại lỗi lầm cho cha mẹ
mình ngày xưa. Thông minh, lém lỉnh, chân tình, Triệu Minh trước sau
vẫn giữ cốt cách của một phụ nữ giàu tình cảm hơn là một quận chúa Mông
Cổ. Cô đánh nhau với Trương Vô Kỵ để rồi đêm đêm, lại ra quán rượu ngồi
đợi chàng trai, mong cùng đối ẩm với nhau mấy chung và quên hết những
chuyện đốt chùa, giết người Mông Cổ, cứu quần hùng Trung Hoa của tập thể
Minh giáo.
Cuộc đời của cô là một chuỗi tháng ngày rong ruổi theo tình yêu. Vô Kỵ
đi đâu, cô mong được đi theo anh đến nơi đó, dù chân trời hay góc bể.
Cách tỏ tình của cô cũng rất rõ ràng, giản dị không e dè khép nép như
những cô gái Trung Hoa. Cô đã cầm Ỷ thiên kiếm, lăn xả vào đám sứ giả Ba
Tư và đánh những chiêu cận chiến có thể khiến mình và kẻ thù cùng chết
để cứu chàng Trương Vô Kỵ. Khi Vô Kỵ hỏi tại sao cô liều mạng như vậy,
cô đã trả lời thẳng thắn : vì Trương Vô Kỵ ôm lấy Hân Ly trước mặt cô.
Thời thơ ấu, Vô Kỵ đã cắn vào bàn tay Hân Ly một cái đến chảy cả máu,
khiến Hân Ly nhớ hoài hình bóng Trương Vô Kỵ. Triệu Minh cũng làm như
thế : cô cắn vào tay Trương Vô Kỵ một nhát để Trương Vô Kỵ nhớ cô trọn
đời. Thực ra cô không làm như vậy thì cũng đủ để chàng Vô Kỵ chọn cô làm
người bạn gái tâm đầu ý hợp. Thậm chí khi Vô Kỵ đã bị vây, sắp bị quân
Nguyên bắt, cô đã nói dối cha và anh rằng nếu họ giết Vô Kỵ thì cô cũng
tự tử theo chàng cho trọn mối tình. Đoạn tiểu thuyết thuật lại chuyện
Triệu Minh xin cha và anh tha cho Trương Vô Kỵ thật đầy kịch tính. Tôi
kính phục người phụ nữ có một tình yêu tha thiết và trái tim dũng cảm
như Triệu Minh. Tình yêu bao la đó đã được chàng Trương Vô Kỵ đền đáp
một cách xứng đáng: anh đã nhường ngôi giáo chủ Minh giáo lại cho Dương
Tiêu, cùng Triệu Minh dắt tay rong chơi bốn biển năm hồ. Và mỗi khi lông
mày Triệu Minh đã nhạt thì theo ba điều ước hẹn với cô, anh lại làm
công việc hợp với lương tâm, không đi ngược lại với quyền lợi võ lâm
Trung Hoa và cũng chẳng ảnh hưởng gì đến việc chống quân Nguyên giành
lại đất Trung Quốc cho người Hán tộc: cầm cây bút và vẽ lại lông mày cho
Triệu Minh.
---------- Bài viết đã được nhập tự động bởi hệ thống ----------
2. Tiểu Siêu (Tiểu Chiêu)
Người thứ hai tôi chọn làm đệ nhị mỹ nhân là cô gái chỉ có một nửa huyết
thống Hán tộc; nửa còn lại thuộc huyết thống Ba Tư, nghĩa là cũng thuộc
loại Di Địch dưới mắt nhìn của Hán tộc. Cha cô là Hàn Thiên Diệp, người
Hán; mẹ cô là Đại Ỷ Ty, thánh sứ nữ của Bái hỏa giáo Ba Tư. Tiểu Siêu
thâm nhập Trung Hoa qua con đường tơ lụa lúc cô mới 15 tuổi. Mẹ cô
nguyên là thánh sứ nữ, đáng lẽ phải giữ mình trong trắng để về Ba Tư lên
ngôi giáo chủ. Nhưng bà đã yêu chàng trai Hàn Thiên Diệp, phản lại giáo
quy của Bái hỏa giáo, đáng lẽ phải lên giàn hỏa thiêu. Bà hóa trang
thành một người đàn bà xấu xí tên là Kim Hoa bà bà. Tiểu Siêu phải làm
một việc khó khăn để chuộc lỗi cho mẹ : tìm mọi cách thâm nhập Quang
Minh Đỉnh của Bái hỏa giáo Trung Hoa và lấy cho được bộ Đại nã di tâm
pháp của Bái hỏa giáo - nhiệm vụ mà mẹ cô không hoàn thành.
Giống lai bao giờ cũng được thừa hưởng những nét ưu tú rực rỡ của cả cha
và mẹ, nên Tiểu Siêu đẹp cái đẹp rực rõ ngay từ khi 15 tuổi. Nhưng
Dương Tiêu, tả sứ của Minh giáo Trung Hoa, là một tay cơ trí, khó mà qua
mắt đươc y. Cho nên, để đóng trọn vai trò con hầu của Dương Bất Hối,
con gái Dương Tiêu, Tiểu Siêu đã phải làm một việc rất khó khăn : giả vờ
méo miệng trong suốt thời gian ở cạnh Bất Hối. Cô học thuộc hết lý
thuyết về âm dương, bát quái trận đồ, biết nhiều võ công nhưng chẳng bao
giờ hé lộ. Cha con Duơng Tiêu nghi ngờ cô, đã đem dây xiềng quấn chân
cô; cô đi đâu tiếng dây xiềng leng keng đến đó. Điệp vụ của Tiểu Siêu là
một điệp vụ cực kì gian nan và cô đã tìm ra được đường hầm trên Quang
Minh Đỉnh.
Khi Vô Kỵ lên làm giáo chủ Minh giáo, việc đầu tiên của anh là hứa sẽ
tháo xiềng khóa cho Tiểu Siêu. Nhờ Tiểu Siêu chỉ dẫn, Trương Vô Kỵ tìm
ra đường hầm, tìm được Càn khôn đại nã di tâm pháp và đại triển thần lực
đẩy được hai cánh cửa đá để bảo toàn lực lượng Minh giáo của Trung Hoa.
Tiểu Siêu trở thành con hầu của Trương Vô Kỵ, lặng lẽ thương yêu Trương
Vô Kỵ. Cũng như Triệu Minh, Vô Kỵ đi đến đâu, Tiểu Siêu đi đến đó, và
cô đã chứng tỏ được bản lĩnh của mình : cầm cờ Minh giáo để chỉ huy năm
đội ngũ hành kì chống đỡ không cho quân Nguyên xông vào bắt giết những
thủ lĩnh của Minh giáo. Tiểu Siêu sẽ không bao giờ nói rõ thân phận của
mình cho Vô Kỵ biết nếu không có ngày tình cờ gặp lại mẹ mình đang bị
đưa lên giàn hỏa thiêu của Bái hỏa giáo Ba Tư. Để cứu mẹ, cô phải nói rõ
với các Bảo thụ vương Ba Tư rằng cô là trinh nữ, sẵn sàng thay mẹ về Ba
Tư lên ngôi giáo chủ Bái hỏa giáo. Cô nói tiếng Ba Tư lưu loát cho đến
khi những người Ba Tư quỳ xuống tung hô thì Vô Kỵ mới biết rằng con hầu
của mình chính là thánh sứ nữ của Bái hỏa giáo Ba Tư.
Lần cuối cùng được phục vụ thay áo, dóc tóc cho Trương Vô Kỵ, Tiểu Siêu
mới nói thật tình yêu của mình dành cho Vô Kỵ và điệp vụ của mình trên
Quang Minh Đỉnh. Họ ôm nhau, hôn nhau, nước mắt chảy dài ướt đẫm vạt áo
chàng Trương. Năm đó, có lẽ Tiểu Siêu mười tám và Vô Kỵ mới hai mươi
hai. Tôi chưa bao giờ đọc một đoạn văn nào tràn đầy xúc động như đoạn
văn Tiểu Siêu chia tay với Trương Vô Kỵ trên biển. Tình yêu của hai
người sao mà đẹp đến thế; đẹp đến nỗi Vô Kỵ không cần lau nước mắt trước
mặt Triệu Minh, người tình của mình đang đứng đấy.Tiểu Siêu về Ba Tư,
đi theo con đường tơ lụa. Trương Vô Kỵ chỉ còn biết trông theo, tưởng
như tiếng khóc của cô còn vọng đâu đây trong tiếng gió, tiếng sóng.
Trong văn chương Trung Hoa, tiếng tướng công được hiểu theo hai nghĩa :
(1) Tiếng của người hầu gọi ông chủ và (2) Tiếng của người vợ gọi chồng.
Tôi nghĩ Kim Dung dùng chữ tướng công cho Tiểu Siêu gọi Vô Kỵ với cả
hai nghĩa trên. Cái đẹp của mối tình Tiểu Siêu - Vô Kỵ là họ gần nhau
suốt mấy năm vẫn giữ được sự trong trắng. Tiểu Siêu nhờ vẫn còn là trinh
nữ nên mới cứu được mẹ khỏi tội hỏa thiêu. Chữ tình, chữ hiếu ở cô gái
lai này rất rõ ràng, khiến tôi càng kính phục cô hơn và bình bầu cô làm
đệ nhị đại mỹ nhân.
---------- Bài viết đã được nhập tự động bởi hệ thống ----------
3. Hân Tố Tố
Hân Tố Tố là con gái của Hân Thiên Chính, giáo chủ Bạch mi giáo (hay
Thiên Ưng Giáo), một tà giáo hoạt động trên sông Trường Giang. Bản thân
cô cũng là một đường chủ - Tử Vi đường chủ. Hân Tố Tố là một cô gái giết
người không gớm tay : chính cô đã giết chết 72 người trong Long Môn
tiêu cục, bởi tiêu cục này không hoàn thành hợp đồng đưa Dư Đại Nham
(đang bị thương) về trao trả cho phái Võ Đang. Nữ ma đầu này có nụ cười
rất lãng mạn, say đắm lòng người. Kim Dung không trực tiếp mô tả nhan
sắc của cô, mà chỉ thuật rằng khi mới gặp cô, hai kiếm khách của phái
Côn Luân là Tương Đào và Cao Tắc Thành đã gần như đứng tim, líu lưỡi.
Rồi họ sinh ra đánh nhau, đâm chém thật tình như hai kẻ thù không đội
trời chung.
Hân Tố Tố và Trương Thúy Sơn, đệ tử thứ năm của phái Võ Đang, gặp nhau
trong tình huống khá lạ lùng : Trương Thúy Sơn vâng lệnh thầy xuống bảo
vệ cho gia đình của Đỗ Đại Cẩm, tổng tiêu đầu của Long Môn tiêu cục
trong khi Hân Tố Tố lại hóa trang như Trương Thúy Sơn để giết chết 72
mạng của tiêu cục này và một số đệ tử khác phái Thiếu Lâm. Cho nên món
nợ của vụ huyết án đó đều trút lên đầu của Trương Thúy Sơn. Trương Thúy
Sơn gặp cô lần đầu tiên dưới tháp Lục Hoà, bên sông Tiền Đường. Lối bày
tỏ tình yêu của Hân Tố Tố rất lạ : cô đập mạnh cho ba mũi Mai hoa châm
đâm sâu vào cánh tay trắng như tuyết của mình để được Trương Thúy Sơn
dùng nội công tâm pháp của phái Võ Đang chữa trị. Trương Thúy Sơn là đệ
tử danh môn chính phái, rất căm thù Bạch mi giáo nên không muốn gần gũi
Hân Tố Tố. Nhưng hoàn cảnh đã nối kết họ lại với nhau: hai người đi
Vương Bàn Sơn để dự lễ dương đao Đồ Long lập oai của Bạch mi giáo; Tạ
Tốn đã đến cướp đao và thấy họ là một đôi nam thanh nữ tú không nỡ giết
đi nên đã bắt cóc họ, buộc họ đến Băng Hỏa đảo với lão để giữ bí mật về
Đồ Long đao. Chính Hân Tố Tố vì cứu Trương Thúy Sơn nên đã dùng kim châm
bắn mù đôi mắt của Tạ Tốn. Họ trốn lên Băng Hỏa đảo, ăn ở với nhau và
sinh ra chàng Trương Vô Kỵ.
Hân Tố Tố là một nữ ma đầu cực kì thông minh, thuộc hết sách của Trang
Tử. Trang Tử là một triết gia mà tất cả các đạo gia Trung Hoa như phái
Võ Đang đều tu dưỡng và học tập theo. Cô đọc cho Trương Thúy Sơn bài Thu
Thủy của Trang Tử : Nước của thiên hạ không đâu lớn bằng biển, muôn vạn
sông ngòi đều đổ về biển, không biết bao giờ nước những sông ngòi đó
mới ngừng chảy và biển mới không đầy như thế này. Khi nghe Thúy Sơn trả
lời : Dù ngàn dặm xa xôi cũng không thể sánh với sự rộng lớn của biển
cả, dù nghìn trượng sâu cũng không đo được độ sâu của lòng biển, Hân Tố
Tố biết ngay Trương Thúy Sơn đang nhớ tới sư phụ của mình là Trương Tam
Phong. Cô dẫn đoạn thầy Nhan Hồi ca ngợi Khổng Tử trong cuốn Trang Tử ra
: Tiên sinh bước ta cũng bước, tiên sinh đi ta cũng đi, tiên sinh chạy
ta cũng chạy. Nhưng tiên sinh giở hết lực ra chạy như bay, ta mới hay
còn kém tiên sinh rất nhiều. Chính câu nói đó đã hình tượng hóa được tài
đức và võ công của Trương Tam Phong trong lòng Trương Thúy Sơn nên
Trương Thúy Sơn càng yêu thương, mến mộ Hân Tố Tố hơn.
Khi họ sống thành lứa đôi, Hân Tố Tố đã tỏ ra là một hiền phụ biết vâng
lời dạy bảo của chồng, bỏ hết những ác nghiệp ngày trước. Lòng hy sinh
của cô thật vô hạn, chưa có một nhân vật nào của Kim Dung sánh kịp. Cho
nên, khi sáu đại môn phái lên núi Võ Đang ép buộc vợ chồng cô phải nói
ra chỗ ẩn nấp của Tạ Tốn để bọn họ đi tìm đao Đồ Long; Trương Thúy Sơn
đã tự tử và Hân Tố Tố cũng chết theo chồng. Đoạn văn mô tả cái chết của
vợ chồng Trương Thúy Sơn - Hân Tố Tố là một khúc ca bi tráng, thể hiện
một cách tuyệt vời tài năng hư cấu của tiểu thuyết Kim Dung. Năm ấy, Hân
Tố Tố mới ngoài ba mươi; con trai của cô -Trương Vô Kỵ - mới lên mười.
Hân Tố Tố xứng đáng được chọn làm đệ tam đại mỹ nhân. Cái chết của cô mở
ra một thế giới mới : thế giới của tình yêu Trương Vô Kỵ - Triệu Minh.
---------- Bài viết đã được nhập tự động bởi hệ thống ----------
4. Nhậm Doanh Doanh
Ngôi vị đệ tứ đại mỹ nhân tôi xin dành cho Nhậm Doanh Doanh, cô gái 17
tuổi đẹp như ngọc, con gái của giáo chủ Triêu Dương thần giáo Nhậm Ngã
Hành, một thứ tà ma ngoại đạo trong Tiếu ngạo giang hồ.
Có lẽ Kim Dung đã đem hết tâm lực của mình ra để xây dựng nhân vật Nhậm
Doanh Doanh : một nhân vật nữ tươi đẹp trong sáng, giỏi âm nhạc, võ công
cao cường, mưu trí sâu sắc, cai trị bọn bàng môn tả đạo bằng trái tim
thép nhưng rất mẫn cảm với tình yêu và sống với tình yêu bằng trái tim
dịu dàng vô kể. Cô gặp Lệnh Hồ Xung trong khi chàng trai lãng mạn này
mất hết công lực, bị sư phụ và các đông môn đạp xuống hố sâu của sự nghi
ngờ khinh bỉ. Trong ngõ Lục Trúc thành Lạc Dương, cô tiếp Lệnh Hồ Xung
qua tấm rèm không cho chàng thấy mặt; nhận tặng vật của chàng trai là bộ
nhạc phổ Tiếu ngạo giang hồ và lắng nghe chàng trai kể lại nỗi đau tình
khi bị Nhạc Linh San phụ bạc đi theo "gã mặt trắng" Lâm Bình Chi. Vì
không thấy mặt cô nên Lệnh Hồ Xung cứ gọi cô là "bà bà".
Doanh Doanh có một nhận định khá lạ lùng về tình yêu : hễ ai không chung
tình với quá khứ thì sẽ không chung tình với hiện tại và tương lai. Cho
nên, cô gái 17 tuổi này đã rời bỏ ngõ Lục Trúc, ra đi để bảo vệ Lệnh Hồ
Xung, đàn khúc Thanh tâm phổ thiện trú để xoa dịu những vết thương về
thể xác và tâm hồn của chàng trai mà cô mới gặp đã cảm thấy yêu mến.
Giữa vùng hoang sơn dã lĩnh, cô bắt ếch nướng cho Lệnh Hồ Xung ăn. Cho
đến khi Lệnh Hồ Xung kiệt sức, cô đành cõng chàng lên chùa Thiếu Lâm nhờ
Phương Chứng đại sư chữa trị và tự đem thân mình cho phái Thiếu Lâm cầm
tù để đổi lấy sinh mạng của Lệnh Hồ Xung. Khi lành bệnh, hiếu ra được
lòng thương yêu và đức hy sinh vô hạn ấy của Doanh Doanh, Lệnh Hồ Xung
đã thống lĩnh hết bọn hào sĩ bàng môn tả đạo, trống rong cờ mở, lên chùa
Thiếu Lâm đòi thả Doang Doanh ra. Chính hành động vô pháp vô thiên ấy
của Lệnh Hồ Xung khiến Doanh Doanh cảm thấy được an ủi rất nhiều và thấy
được sự hy sinh của mình là không uổng phí. Họ yêu nhau nhưng trong
lòng Nhậm Doanh Doanh biết chàng trai chưa phai mờ hình ảnh của Nhạc
Linh San. Cô không hề ghen tức, ngược lại đối sử với Nhạc Linh San như
người bạn tốt. Chính cô đã cứu Nhạc Linh San, chính cô đã động viên Lệnh
Hồ Xung nghe tâm trạng sư muội trước khi chết. Trong con người Doanh
Doanh nhỏ bé có trái tim nhân hậu vĩ đại của một phụ nữ công bằng.
Nhậm Doanh Doanh thật thông minh, bén nhạy. Nghe Lệnh Hồ Xung kể chuyện,
cô biết ngay là chàng không phải là thủ phảm giết bạn đồng môn của
mình, biết ngay là chàng bị sư phụ lừa dối. Chính cô đã khám phá ra
chiêu số võ công của Nhạc Bất Quần giống như chiêu số võ công của gã lại
cái Đông Phương Bất Bại; từ đó phán đoán ra Tịch Tà kiếm phổ còn có
nghĩa là Quỳ hoa bảo điển, và biết Nhạc Bất Quần đã "Dẫn đao tự cung"
(tự thiến bộ phận sinh dục). Cũng chính cô chứ không ai khác đã nhắc bảo
cho Lệnh Hồ Xung biết rằng Nhác Bật Quần là một gã ngụy quân tử. Và
cũng chỉ có cô mới kiềm chế nổi Nhạc Bất Quần, bảo vệ mạng sống cho mình
và tình lang : bóp mũi Nhạc Bất Quần cho lão uống Tam Thi não thần đan,
một loại độc dược mà ngoài cô ra, không ai ở trên đời có thuốc giải
được.
Kết thúc Tiếu Ngạo Giang Hồ, Kim Dung để cho Doanh Doanh nhường ngôi
giáo chủ lại cho Hướng Vân Thiên, làm đám cưới với Lệnh Hồ Xung và hai
vợ chồng song tấu khúc Tiếu ngạo giang hồ. Họ đã hoàn thành tâm nguyện
mà Lưu Chính Phong và Khúc Dương ngày xưa chưa làm được : Hắc đạo và
Bạch đạo vẫn có thể sống với nhau trong một không khí hòa bình hạnh phúc
thật sự, xoá đi biên giới của hận thù và nghi Kỵ. Tiếu ngạo giang hồ
chính là khát vọng của tác giả Kim Dung đối với đất nước và đồng bào
Trung Hoa của ông. Và Doanh Doanh chính là biểu tượng của cái đẹp Trung
Hoa, một cái đẹp đi vào phạm trù tinh thần chứ không còn ở phạm trù vật
chất nữa.
Doanh Doanh hoàn mỹ quá khiến tôi đâm ra nghi ngờ, không hiểu khi xây
dựng nhân vật này, Kim Dung có đặt tư tưởng đại Hán của ông vào chăng?
Tôi định chọn Nhậm Doanh Doanh ở ngôi vị số một, trên cả Triệu Minh,
nhưng vì sự nghi ngờ đó đã khiến tôi xếp cô vào vị trí số bốn. Đã bảo
tôi là một người đầy cảm tính, không thể có sự khách quan, trung thực và
khoa học của các vị giám khảo chấm thi hoa hậu nghiêm khắc và đầy kinh
nghiệm ngày nay cơ mà. Cho nên tôi cứ liều mạng dưa cô gái Mông Cổ lên
ngôi vị số một và đặt cô Doanh Doanh Hán tộc xuống vị trí số bốn. Mà số
bốn thì cũng cực kì quan trọng rồi.
---------- Bài viết đã được nhập tự động bởi hệ thống ----------
5. A Châu
Có lẽ số phận đau thương nhật, bi kịch nhất trong hàng trăm nhân vật nữ
của tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung chỉ dành cho một nhân vật A Châu. Tên
thật của cô là Đoàn A Châu, con của Trấn Nam Vương Đoàn Chính Thuần nước
Đại Lý và bà Nguyễn Tinh Trúc, người nước Tống. Mối tình ngoại hôn giữa
hai người đã sinh ra hai cô gái xinh đẹp: Đoàn A Châu và Đoàn A Tử.
Cũng có lẽ trong thế giới tiểu thuyết võ hiệp, ta chưa bắt gặp nhân vật
đàn ông, một người cha nào vô trách nhiệm như Đoàn Chính Thuần. Ngay đến
hai đứa con gái của mình, ông cũng chẳng biết chúng được đặt tên gì.
Nguyễn Tinh Trúc thấy đứa lớn thích mặc áo dỏ, đặt tên là A Châu; thấy
con gái nhỏ thích mặc áo tía, đặt tên là A Tử. Cùng sinh ra một gốc
nhưng A Châu và A Tử là hai tính cách khác biệt: A Châu dịu dàng, nhân
hậu, chung tình bao nhiêu thì A Tử lại tàn bạo, ngang ngược, thủ đoạn
bấy nhiêu. Do phải tránh né kẻ thù truy bức, Nguyễn Tinh Trúc phải đưa
hai đứa con gái ra Nhạn Môn Quan tị nạn. Cho nên ba chữ "Nhạn Môn Quan"
trở thành nỗi đau, sự lỗi lầm lớn trong tâm hồn Đoàn Chính Thuần, khiến
Đoàn Chính Thuần phải chịu sự oan khuất lớn sau này dẫn đến cái chết của
A Châu.
A Châu gặp Kiều Phong tức Tiêu Phong, người nước Khất Đan, nguyên bang
chúa Cái Bang Trung Hoa, trong một hoàn cảnh khá dặc biệt trên chùa
Thiếu Lâm. Kiều Phong lên chùa Thiếu Lâm thăm lại người thầy yêu của
mình là Huyền Khổ đại sư, để xác nhận lại quá khứ của mình; A Châu lên
chùa Thiếu Lâm là để đánh cắp bộ Dịch Cân kinh về tặng cho chủ nhân của
cô là Cô Tô Mộ Dung Phục. A Châu có thuật cải trang thần tình, đã cải
trang thành nhà sư Trí Thanh, lấy được bộ Dịch Cân kinh nhưng lại bị
trúng một chưởng của các nhà sư Thiếu Lâm. Một chưởng đó có thể làm tan
bia vỡ đá huống chi một thân thể mảnh khảnh của một cô gái mới mười tám
tuổi cỡ A Châu. Kiều Phong đã nhanh trí ném ra một tấm gương đồng làm
tấm nệm cản bớt kình lực của phát chưởng nhưng A Chấu vẫn bị thương
nặng. Ông cứu A Châu, rời khỏi chùa Thiếu Lâm. Năm ấy ông ba mươi và A
Châu chỉ mới mười tám tuổi.
Không gặp nhau thì thôi, gặp nhau là đã có duyên phận; Kiều Phong nhất
quyết phải cứu A Châu. Nhưng sức ông có hạn, lại không hiểu y lý, ông
đành đưa A Châu về Tụ Hiền trang, nơi mà quần hùng Trung Nguyên đang hội
họp bàn kế hoạch giết ông, một tên Khất Đan mọi rợ, để cầu cứu thần y
Tiết Mộ Hoa chữa thương cho A Châu. Khi hiểu được tấm lòng Kiều Phong
không ngại sinh tử, đưa mình vào đầm rồng hang hổ để cầu mong cái sống
cho cô, A Châu mới nhận ra được rẳng trên đời này chưa có người đàn ông
nào nặng tình nặng nghĩa như vậy. Sau khi gửi gắm A Châu, Kiều Phong
cùng quần hùng Trung Nguyên ác đấu một trận. Ông bị thương và may mắn
được một người bịt mặt cứu ra khỏi Tụ Hiền Trang, đưa về một sơn cốc...
A Châu được Tiết thần y chữa lành vết thương. Cô bé mảnh khảnh vượt mấy
ngàn dặm tìm về Nhạn Môn Quan giữa mùa tuyết phủ, chờ gặp Kiều Phong. Cô
biết thế nào Kiều Phong cũng trở lại, đến bên phiến đá xưa nơi cha ông
Tiêu Viễn Sơn trước khi chết đã dùng chỉ công ghi lại văn tự trên đó.
Quả nhiên, Kiều Phong trở lại Nhạn Môn Quan đúng như trong một kịch bản
đầy khát vọng mà mọi độc giả của Thiên Long Bát Bộ tức Lục Mạch Thần
Kiếm truyện đều mong ước được nhìn thấy. A Châu nhào vào lòng Kiều Phong
và khóc rưng rức vì hạnh phúc, vì hổ thẹn, vì tủi thân. Nhưng cho đến
lúc ấy, Kiều Phong vẫn chưa biết được đó là sự biểu lộ tình yêu đầu đời
thầm kín. Trọn cuộc đời ông ngoài chuyện chiến đấu, ông chỉ biết có bát
rượu, không hề nghĩ đến nữ sắc. Ông lại mang mặc cảm mình là người Khất
Đan - dân tộc hạ đẳng, trong khi Đoàn A Châu lại là người Trung Hoa -
dân tộc thượng đẳng, nên ông không hề để ý đến tấm chân tình của A Châu.
Tuy nhiên, giữa trời đất Nhạn Môn Quan đầy tuyết phủ, được làm bạn với
một cô gái xinh đẹp dịu dàng và nhất là được nghe cô thỏ thẻ: "Sẽ cùng
đại gia qua bên kia Nhạn Môn Quan săn chồn đuổi thỏ" thì ông mới hiểu
rằng A Châu thương mình. Họ yêu nhau nhưng miệng chưa bao giờ nói ra chữ
"yêu", vượt qua mấy ngàn dặm trở lại thành Biện Lương, trai vẫn giữ
được lễ, gái vẫn giữ được băng thanh ngọc khiết.
Do một lời vu cáo để trả thù riêng của Ôn Khang, Kiều Phong và Đoàn A
Châu nhận lầm rằng Đoàn Chính Thuần chính là người chủ huy đánh giết
Tiêu Viễn Sơn - cha của Kiều Phong ngày trước tại Nhạn Môn Quan. Họ trở
lại rừng Phương Trúc giữa lòng Thái Hồ, Giang Nam để Kiều Phong ước hẹn
cuộc chiến đấu rửa thù với Đoàn Chính Thuần. Cả Kiều Phong và A Châu đều
nguyện rằng sau cuộc trả thù này, họ sẽ sang bên kia Nhạn Môn Quan sống
với nhau cuộc đời bình yên trên thảo nguyên Khất Đan, không chen chân
vào cõi giang hồ nữa. Cho đến khi nhìn thấy A Tử có một miếng ngọc bội
giống như miếng ngọc bội của chính cô, cô mới đau sót nhận ra rằng Đoàn
Chính Thuần là cha; Nguyễn Tinh Trúc là mẹ và A Tử là em ruột cô.
Nhưng khát vọng trả thù của người tình Kiều Phong thì nặng như núi Thái
Sơn, cô biết xử lí làm sao giữa hiếu và tình. Kim Dung đẩy nhân vật đáng
thương của ông vào bi kịch : cho A Châu hóa trang thành Đoàn Chính
Thuần, đến bên cầu giữa đêm mưa gió, chấp nhận cuộc chiến đấu rửa hờn
của Kiều Phong. Kiều Phong chỉ đánh một chưởng và ông khám phá ngay ra
điều khác lạ. Ông ôm địch thủ lên, gỡ bỏ hết những vật hóa trang và dưới
ánh chớp của sét, ông nhận ra đó là A Châu, tình yêu của ông, cứu cánh
hạnh phúc của ông. Cô thỏ thẻ tóm tắt lại cho ông hiểu mọi sự. Lần đầu
tiên trong suốt mười sáu cuốn Lục Mạch Thần Kiếm truyện, tác giả Kim
Dung mới để cho Kiều Phong khóc. Nuớc mắt ông hòa lẫn nước mưa, đẫm ướt
người A Châu. Ông như điên như khùng, bồng cô gái thân yêu chạy suốt
rừng Phương Trúc, gọi tên từng người, gọi Đoàn Chính Thuần ra giết mình
để trả thù cho con gái. Nhưng chẳng ai đáp lời ông.
Chương Kim Dung viết về chuyện đánh lầm vào A Châu giữa đêm mưa tầm tã
và sấm chớp liên hồi có cái mức độ đau thương của lớp cuối cùng khi nhân
vật Phượng và Xung vướng phải dây điện, cùng chết bên nhau trong hồi
cuối vở kịch Lôi Vũ của Tào Ngu. Tác giả Kim Dung đẩy Kiều Phong đến độ
chót của bi kịch, tước mất của ông nguồn sống, tình yêu và khát vọng về
một đời du mục tầm thường trên thảo nguyên Khất Đan.
A Châu không đẹp rực rỡ, võ công cao cường, mưu trí chẳng bằng ai, lại
chỉ là một con hầu trong nhà Mộ Dung Phục. Nhưng cái đạo hiếu của cô,
mối tình trong sáng của cô dành cho Kiều Phong, tâm hồn ôn nhu phưong
Đông của cô thì không người phụ nữ nào sánh kịp. Để làm nổi bật A Châu,
Kim Dung xây dựng nhân vật A Tử điêu ngoa, xảo quyệt, tàn bạo; chẳng
khác nào trong kỹ thuất chụp ảnh ta chú trọng đến chất contrast. Chính
vì thế mà A Châu rực rỡ; Kiều Phong một đời chỉ có A Châu, chỉ yêu A
Châu và không thể yêu bất kỳ cô gái thứ hai nào trên thế gian, không
muốn ôm bất cứ một người phụ nữ nào trên thế giới.
Xưa nay, bi kịch tình - hiếu vẫn là một chủ đề thường gặp trong tiểu
thuyết Việt Nam và Trung Hoa. Thúy Kiều yêu Kim Trọng nhưng phải bán
mình 300 lạng để chuộc tội cho cha, để rồi phải sống 15 năm trong lầu
xanh. Nhưng Thúy Kiều còn có Thúy Vân để thay thế đền đáp cho Kim Trọng,
còn A Châu thì chẳng có ai. A Tử không có cái nhu mì của Thúy Vân và
Kiều Phong cũng chẳng có cái tình cảm văn nhân ấm ớ của Kim Trọng. Bi
kịch tình hiếu A Châu - Kiều Phong trong Lục Mạch Thần Kiếm truyện là vô
điều kiện và tuyệt đối. A Châu trở thành nhân vật mẫu mực, tượng trưng
cho lòng hy sinh cao cả của người phụ nữ phương Đông. Chính vì cái vẻ
đẹp nhân bản đó trong tâm hồn cô gái mười tám tuổi này mà tôi mạnh dạn
bầu cô làm đệ ngũ đại mỹ nhân.