Bà Chín sống một mình, lặng lẽ lắm. Cách biệt tuổi tác, tui với bà Chín
ít khi trò chuyện. Nhưng một bữa, tui đang chờ tụi bạn ra đá banh, cánh
cổng bên nhà bà Chín bỗng hé mở.
Bà vẫy tui: “Vô đây, có việc này nhờ cháu chút xíu!”. Căn nhà
rộng rãi mà lạnh lẽo, bà Chín chỉ tui ngồi ngay cái bàn xa-lông, trước
mặt có tờ giấy trắng và cây viết. Bà nhờ tui viết thư. Thấy tui tròn
mắt, bà giải thích: “Mắt bà yếu quá, viết chữ không ngay hàng. Mấy đứa
con ở bên kia hay gọi điện thoại và viết thư về. Bà phải viết trả lời,
không thôi tụi nó lại lo…”. Tui gãi đầu gãi tai, báo trước: “Rồi, bà
Chín đọc đi. Nhưng chữ con viết xấu hoắc đó nghen!”. “ờ, ráng viết cho
dễ đọc chút xíu là được!” – Bà Chín chấp nhận liền.
Tui bắt đầu
rị mọ viết theo những gì bà đọc. Có khi bà đọc một câu dài thòng khiến
tui ghi hối hả mà vẫn không kịp. Có khi bà lại im lặng rất lâu, làm tui
nôn nóng gõ viết chờ đợi. Bà kể về cuộc sống hàng ngày, như nấu món ăn
gì, có ai tới thăm, dự tính sẽ đi chơi đâu, rằng sáng nào bà cũng đều
đặn ra ngoài tập thể dục nên sức khỏe vẫn dồi dào. Tui buông viết, lé
mắt nhìn bà Chín: “Con có thấy bà tập thể dục đâu, bà Chín!”. Bà nói
nhỏ: “Cứ ghi vậy đi, cho tụi nó bên kia an lòng!”. Mất hơn một tiếng, lá
thư cũng xong. Bà Chín mang cho tui ly nước cam. Lúc đặt xuống bàn, cái
ly đột nhiên chao nghiêng, đổ ra ngoài một miếng lớn. Bà Chín lọng cọng
lấy miếng giẻ thấm nước. Đó cũng là lúc tui nhận ra tay bà Chín cứ run
bắn lên, nhìn rất kỳ lạ.
Sau lần đó, tuần nào tui cũng được bà
Chín gọi vô nhờ viết thư. Lần nào cuối thư, khi đọc cái đoạn quen thuộc
“Má nhớ các con và mấy đứa nhỏ. Nhớ gửi hình về nhiều cho má coi…” bà
Chín cũng khóc. Vậy mà trên đầu thư, bà kể chuyện xôm tụ lắm, làm như
mọi chuyện rất ổn thỏa. Chỉ có tui biết rõ chẳng phải vậy đâu. Dạo gần
đây, bà Chín bị run nhiều. Không chỉ tay, mà cả toàn thân nữa.
Một
hôm, đi học thêm về, tui thấy cổng nhà bà Chín quên cài chốt. Tui chạy
vô. Nhà vắng hoe, im lặng. Mất hồi lâu, tui mới nhận ra bà Chín nằm
khuất sau bàn bếp, chén mì tôm đổ đầy trên ngực. Bà vẫn tỉnh, nhưng
không sao ngồi dậy được. Bà run rất mạnh. Tui đỡ bà dậy, dọn dẹp mọi
thứ, chờ tới khi bà ổn hẳn tui mới về nhà.
Tui lại viết thư
giùm bà Chín. Chẳng khác bao nhiêu so với những lá thư tui từng viết.
Nhưng, canh lúc bà Chín im lặng, ngồi thẫn thờ trong ghế, tui viết lẹ
mấy dòng:
Thưa cô chú, con là người vẫn viết thư giùm bà Chín đây.
Bà Chín bây giờ yếu lắm. Bà bị run cả người, sắp tới không tự chăm sóc
bản thân được nữa. Cô chú về với bà nghen. Vì bà tội nghiệp lắm, hay
khóc một mình… Bà Chín lại đọc tiếp, rồi bỏ tờ giấy vô phong bì, dán kín, để tui mang ra bưu điện.
Cuối
hè, tôi thấy một chị rất trẻ đang dọn dẹp mảnh vườn đầy lá rụng trước
nhà bà Chín. Bà Chín đang ngồi nghỉ ở hiên, vẫy tôi lại: “Lại đây con,
con gái út bà vừa học Đại học xong, nó về sống với bà luôn!” Rồi bà
cười: “Đó, thằng nhỏ vẫn giúp má viết thư mà con cứ hỏi hoài đó”. Chị ấy
nhìn tôi, tôi nhìn chị ấy, và cùng cười ấm áp như đã quen thân, có lẽ
bởi giữa chúng tôi có một bí mật nho nhỏ. Nỗi cô đơn của cội rễ già, lá
non giờ đã hiểu.