HÒA LẠC HÒA BÌNH-EXPRESSWAY
Chào mừng bạn đến với diễn đàn trang web Hòa Lạc - TP.Hòa Bình Expressway !
HÒA LẠC HÒA BÌNH-EXPRESSWAY
Chào mừng bạn đến với diễn đàn trang web Hòa Lạc - TP.Hòa Bình Expressway !
HÒA LẠC HÒA BÌNH-EXPRESSWAY
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.


 
Trang ChínhTìm kiếmLatest imagesĐăng kýĐăng Nhập
Thiết kế name card, độc đáo kết hợp màu sắc ấn tượng
In card visit nhanh, in card visit rẻ đẹp, in card visit ở Hà Nội
Chuyên photo A4-A0, photocopy giá rẻ
In nhanh poster đẹp tại Hà Nội
Nơi in tờ rơi, tờ gấp màu nhanh nhất tại Hà Nội
in card công ty xây dựng Trần Đăng Ninh
In màu a4-a3, photo coppy, giá rẻ năm 2014 tại Trung Hòa
in màu a4-a3 laser siêu rẻ, siêu đẹp, đặc biệt giá cả rất hợp lý — Hà Nội
Làm kỷ yếu, in kỷ yếu số lượng ít đẹp và trang nhã, thiết kế chuyên nghiệp chất lượng cao tại Hà Nội
In kỷ yếu giá rẻ nhất Hà Nội
In kẹp file, kẹp tài liệu giá cả cạnh tranh
Đường cao tốc Chongzun
Autorun Virus Remover 3.1.0422 - Ngăn chặn mọi virus autorun từ USB
Microsoft Security Essentials 2.1.1116.0 Final - Trình diệt virus miễn phí từ Microsoft
5 Antivirus miễn phí tốt nhất của năm 2011
[Phần mềm + Hướng dẫn]Tích hợp Hiren's BootCD 14.1 Rebuild và mọi phiên bản vào menu boot vào Ổ Cứng (HDD) và RAM cho Windows 7 !!!
[Phần mềm + Hướng dẫn]Tích hợp Hiren's BootCD 14.1 Rebuild và mọi phiên bản vào menu boot vào Ổ Cứng (HDD) và RAM cho Windows 7 !!!
TuneUp Utilities 2010 9.0.2020.2 Final - Bộ công cụ tối ưu hàng đầu cho PC
Hot! Driver.Genius.Pro v10.0.0.761 Final _Crack No Virus ---Update driver mới nhất -» CHUẨN KO CẦN CHỈNH->NHANH TAY HỐT NÀO :D
Your Uninstaller! 7.4.2011.12 (Updated 08.11.2011) _ Gỡ phần mềm hàng đầu !!!





















Share | 
 

 Ác quỷ trên thiên đàng

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Go down 
Tác giảThông điệp
Admin
Admin
Admin
Admin

Tổng số bài gửi : 1754
Điểm : 6794
Ngày tham gia : 22/12/2010
Tuổi : 39
Đến từ : Hà Nội
Level: 39 Kinh nghiệm: 1754%
Sinh mệnh: 1754/100
Pháp lực: 39/100

NGƯỜI ĐIỀU HÀNH
Phù hiệu: Ác quỷ trên thiên đàng  POLLICE

Ác quỷ trên thiên đàng  Empty
Bài gửiTiêu đề: Ác quỷ trên thiên đàng    Ác quỷ trên thiên đàng  Icon_minitimeWed Mar 02, 2011 11:57 pm

Ác quỷ trên thiên đàng
Tác giả: Henry Miller
» Dịch giả: Tâm Nguyễn
» Thể lọai: Truyện dài



1. Tập 1

Liệu ta phải tìm đến sách, tìm đến thầy, đến khoa học, đến tôn giáo, đến
triết học, liệu ta phải biết nhiều đến thế sao - tuy có là bao! - rồi
mới dám sống sao? Liệu ta cứ phải hành hạ thân mình đủ tình đủ tội rồi
mới hoàn toàn tỉnh ngộ và hiểu biết hay sao? [...]
Hãy quên, hãy tha
thứ, hãy từ bỏ, hãy thoái vị. Tôi cần phải nghiên cứu lá số tôi mới hiểu
được sống giản dị, như thế là khôn ngoan sao? Cần phải sống với hôm qua
mới biết hưởng ngày mai sao? Sao tôi lại không thể cạo bỏ ngay dĩ vãng,
ngay tức khắc bắt đầu sống cho ra sống - nếu thực tình tôi muốn? Thanh thản và vui tươi... theo tôi chỉ cần muốn là được.
[/size]



----------------------------------------------------------------


Chính
Anaϊs Nin là người giới thiệu tôi với Conrad Moricand. Nàng đưa hắn lại
văn phòng tôi ở Biệt thự Seurat vào mùa thu 1936. Cảm tưởng đầu tiên
của tôi không được tốt đẹp lắm. Anh chàng có vẻ lầm lì, dạy đời, cố
chấp, tự phục mình. Cả con người hắn đầy một tính chất an bài.
Hắn
đến vào lúc chập tối, nên trò chuyện được một lúc chúng tôi đưa nhau đi
ăn tại một quán nhỏ đường Orléans. Cứ nhìn cái lối hắn xem thực đơn tôi
đủ rõ hắn tủn mủn. Suốt bữa ăn, hắn không ngớt chuyện nhưng vẫn ăn lấy
ăn để. Nhưng câu chuyện của hắn chả thêm thắt gì cho món ăn mà còn làm
cho món ăn thêm khó tiêu.
Ở hắn có một cái mùi mà tôi không sao ngửi
thấy. Một mùi pha lẫn rượu Rôm với tro ướt và thuốc lá nặng, phảng phất
chút nước hoa hạng sang. Và rồi tất cả rút lại thành một mùi không sao
lẫn được - mùi vị chết chóc.
Tôi từng được giới thiệu với các nhân
vật tướng số trước khi gặp Moricand. Và ở Eduardo Sanchez, có họ với
Anaϊs Nin, tôi nhận thấy một con người uyên bác cũng theo lời khuyên của
bác sĩ phân tâm, nên cũng nghiên cứu tử vi như thể là một cách chữa
bệnh. Nhìn Eduardo, tôi liên tưởng đến con giun, một sinh vật của Thượng
đế, mà người ta bảo là có ích nhất. Hắn ta đọc cũng nhiều mà nhớ cũng
lắm. Cũng như giun, hắn hì hục đọc không phải cho hắn, mà cho thiên hạ.
Dạo đó, Eduardo đang miệt mài nghiên cứu bộ tam tinh Diêm Thiên Hải.
Đồng thời nghiên cứu cả lịch sử, tiểu sử, siêu hình để chứng minh cho
các điều trực nghiệm của mình. Và sau hết hắn bắt đầu khảo cứu cái đề
tài vĩ đại Apocastastasis.
Với Moricand tôi bước vào một thế
giới mới. Moricand không những là một nhà tử vi, một nhà học giả miệt
mài với các triết học hiểm hóc, mà còn là một nhà huyền bí học. Dáng mạo
hắn trông cũng có vẻ thuật sĩ. Có phần cao lớn, vạm vỡ, vai rộng, đi
đứng nặng nề chậm chạp, trông hắn người ta dám bảo là dòng giống Da Đỏ ở
Bắc Mỹ. Có lần hắn tâm sự với tôi là hắn thường nghĩ hắn có sự liên hệ
gì giữa cái tên Moricand và Mohican. Những khi buồn, trông bộ mặt hắn có
phần buồn cười, như thể hắn tin rằng mình là tên Mohican cuối cùng.
Chính những lúc đó, với cái đầu vuông và lưỡng quyền cao, với cái dáng
vóc nặng nề và ngồi không nhúc nhích, trông hắn chẳng khác gì pho tượng
đá ưu tư.
Thực ra hắn là một kẻ khắc khoải, một con người cứng rắn,
thất thường và quả cảm. Quen với nề nếp, hắn sống cuộc đời khắc kỷ của
một ẩn sĩ. Thật khó mà biết được hắn thích sống như thế hay cố tình ép
mình phải sống như thế. Chưa bao giờ nghe hắn nói hắn thích sống một đời
sống ra sao. Hành vi hắn như kẻ chua cay đã lắm nên đành an phận. Như
kẻ thích vị cay đắng hơn ngọt bùi. Hắn mang nặng một thứ nữ tính không
phải là không hấp dẫn, nhưng hắn lại khai thác có phần có hại cho hắn.
Hắn là một tay phong lưu giả, hòa hoa mượn, sống tạm ở nhờ. Và hoàn toàn
sống với quá khứ!
Để mô tả anh bạn chúng ta, có lẽ lời xác đáng nhất
mà tôi có thể nói ra ngay là hắn ta là một con người khắc kỷ mang theo
mình cả một nấm mồ. Đồng thời cũng là một con người muôn mặt, như dần dà
tôi nhận thấy. Dễ chạnh lòng, rất hay hờn mát, khắc biết ngay, lắm khi
nhẹ dạ đa cảm như cô gái mười sáu. Bản tính không thẳng thắn, lại cố hết
sức làm ra mình thẳng thắn, vô tư, công chính. Và thủy chung nữa, tuy
rằng tôi cảm thấy bản chất hắn đúng ra là kẻ lừa thầy phản bạn. Thật
vậy, ngay thoạt đầu tôi đã ý thức được ở hắn cái bản chất xảo quyệt khôn
tả ấy, mặc dù tôi chưa có gì làm chắc. Tôi nhớ là tôi cố gạt bỏ cái ý
nghĩ ấy và thay thế nó bằng cái ý niệm mơ hồ rằng mình ngờ bậy.
Còn
buổi đầu ấy hắn coi tôi ra sao thì vẫn chỉ là điều ức đoán của tôi thôi.
Hắn cũng chẳng biết tôi viết lách những gì ngoài vài bài tạp nhạp dịch
đăng trên các tập san Pháp. Dĩ nhiên hắn biết ngày sinh tháng đẻ của tôi
nên có lập cho tôi một lá số ngay sau khi quen nhau. (Nếu tôi không
nhầm thì chính hắn bảo tôi không phải sinh giờ Hợi mà sinh vào giờ Ngọ
mới đúng).
Chúng tôi chuyện trò với nhau toàn bằng tiếng Pháp mà tôi
không thạo cho lắm. Thật đáng tiếc, vì hắn không những nói chuyện rất
hay mà còn điệu đà âm hưởng, nói tiếng Pháp như làm thơ. Nhất lại là con
người thích tế nhị sâu sắc! Mỗi lần gặp là một cái thú cho tôi vừa được
học hỏi (không những tử vi) vừa được nghe nhạc, vì hắn sử dụng ngôn ngữ
như một nhạc sĩ sử dụng nhạc cụ vậy. Thêm nữa còn được cái thú nghe
những mẩu giai thoại về các danh nhân mà tôi chỉ được biết qua sách vở.
Nói
tóm lại, tôi là một thính giả lý tưởng. Và với một người thích nói,
nhất lại là một người độc thoại, còn gì thích bằng có một thính giả chăm
chú, nhiệt thành, tán thưởng?
Tôi cũng biết cách đặt câu hỏi. Những câu hỏi ích lợi.

sao, chắc hắn cũng cho tôi là một quái vật. Một kẻ ly hương từ
Brooklyn, một kẻ thân Pháp, một lãng tử, một nhà văn mới tập tễnh, dớ
dẩn, hăng say, cái gì cũng tin, cái gì cũng thích, và hầu như thiếu hẳn
đường hướng. Đó là cái hình ảnh mà tôi còn nhớ về tôi dạo đó. Trước hết
tôi thích giao du (hắn thì không). Hơn nữa, tuổi Mùi, mặc dầu không đồng
giáp. Về tuổi tác chúng tôi chênh lệch nhau không mấy.
Xem ra thì
tôi cũng là một thứ kích thích cho hắn. Bản tính yêu đời phóng túng của
tôi bổ khuyết cho bản tính yếm thế thận trọng của hắn. Tôi thì thật thà
có sao nói vậy, hắn thì chí lý dè dặt. Tôi có xu hướng cái gì cũng muốn
xem muốn biết, hắn, trái lại, thu hẹp sở thích của mình rồi tập trung
hết cả tâm trí vào đó. Hắn có cái lý trí và lập luận của người Pháp, còn
tôi thì hay tự mâu thuẫn và tỏa ra mọi hướng.
Chúng tôi cùng chung cái bản chất của tuổi Mùi. Trong cuốn Kính Chiêm Tinh [1], hắn có giản lược và phân biệt các nét chung của tuổi Mùi. Dưới mục “Tương đồng”, chẳng hạn hắn ghi:
“Triết gia. Pháp quan. Phù thủy. Ẩn sĩ. Phu đào huyệt. Hành khất”.
“Sâu sắc. Cô độc. Lo âu”.
“Vực. Hang. Các nơi hoang liêu”.
Đây
là một số tuổi Mùi hắn nêu ra, đại loại như: Dante, Michel Angelo,
Dostoievsky, El Greco, Schopenhauer, Tolstoy, Cézanne, Edgar Allan Poe,
Maxim Gorky...
Tôi xin thêm vài tính chất nữa của các tuổi Mùi, theo lời Moricand.
“Trầm ngâm, lầm lỳ, ít nói. Ưa tĩnh mịch, tất cả những gì huyền bí, hay suy tư.
“Buồn rầu và nặng nề.
“Già trước tuổi.
“Thấy cái xấu trước cái hay. Thấy ngay nhược điểm của mọi sự.
“Khổ hạnh, tiếc nuối, luôn luôn ân hận.
“Thù dai.
“Ít khi hay không khi nào cười; khi cười, thì cười chua chát.
“Sâu
sắc nhưng nặng nề. Biểu lộ chậm chạp khó khăn. Cố chấp và kiên trì. Làm
việc không biết mỏi. Lợi dụng mọi cái để thu nhập hay tiến thủ.
“Khao khát tìm hiểu. Làm những công chuyện trường kỳ. Ưa nghiên cứu những gì phức tạp và trừu tượng.
“Sống nhiều mặt một lúc. Có thể đồng thời suy tư nhiều tư tưởng khác nhau.
“Chỉ soi sáng các vực thẳm.
Mỗi nhà có ba gian hay ba giáp. Về giáp đầu - tôi sinh ngày 26 tháng chạp - hắn viết:
“Rất
kiên nhẫn và lì lợm. Dám làm bất cứ gì miễn sao thành công. Thành công
nhờ kiên nhẫn, nhưng từng bước một... Có xu hướng quá coi trọng đời sống
vật chất. Tiện tặn thân mình. Yêu bền thù dai. Tự phục mình”.
Tôi chép lại các lời này vì nhiều lý do. Bạn đọc hãy tự mình xét lấy tầm quan trọng của chúng.
Nhưng xin nói tiếp... Lần đầu tôi gặp hắn, Moricand ở - sinh hoạt có lẽ hay hơn
- tại một khách sạn tồi tàn tên là Khách sạn Modial tại đường Notre
Dame de Lorette. Hắn vừa trải qua một cơn khủng hoảng lớn - mất hết cơ
nghiệp. Cùng quẫn, lại chẳng biết làm ăn gì, hắn sống tay làm hàm nhai.
Sáng cà phê bánh mì ăn ngay trong phòng, tối thường cũng lại bánh mì cà
phê, còn trưa thì nhịn.
Anaϊs là cứu tinh. Thỉnh thoảng giúp hắn dăm
ba chục. Nhưng còn có những người khác, tuy chẳng là bao, mà nàng cảm
thấy cần phải giúp đỡ. Điều mà Moricand không hề ngờ là khi giới thiệu
hắn với tôi, Anaϊs mong nhẹ mình được phần nào. Nàng hành động rất nhẹ
nhàng, tế nhị, kín đáo, như mọi hành động khác của nàng. Nhưng nàng rất
dứt khoát với hắn.
Anaϊs thừa biết rằng tôi không đủ sức đùm bọc hắn,
trừ phi về mặt tinh thần, nhưng nàng cũng biết tôi khéo xoay xở, bạn bè
quen biết lại nhiều và đủ hạng, và miễn là tôi muốn thế nào tôi cũng
tìm ra cách giúp hắn, ít ra cũng tạm thời.
Nàng tính không sai lắm.

nhiên, theo ý tôi, trước hết và cần nhất là lo sao cho anh chàng ăn
uống đều và đầy đủ hơn. Tôi không đủ sức để bảo đảm hắn ngày ba bữa,
nhưng thỉnh thoảng đãi hắn ăn một bữa ra ăn. Đôi khi tôi mời hắn đi tiệm
ăn trưa hay ăn tối; thường thì tôi mời hắn về chỗ tôi, và trổ tài nấu
bếp đãi hắn. Đói khát thường xuyên như hắn, nên có gì lạ là ăn xong thì
hắn cũng say ngất ngư. Chẳng phải say vì rượu, mặc dầu hắn uống thả dàn,
nhưng say vì món ăn, vì ăn quá nhiều khiến cơ thể ốm yếu của hắn không
đủ sức tiêu hóa. Có điều éo le - và tôi hiểu chán! Là khi thả bộ về đến
nhà anh chàng lại đói meo. Thật tội cho Moricand! Cái khía cạnh khôi hài
này của cái khổ cảnh của hắn thật quá quen thuộc đối với tôi! Đi bộ khi
bụng rỗng, đi bộ khi bụng đầy, đi bộ để tiêu cơm, đi bộ để tìm cơm, đi
bộ vì đó là thú tiêu khiển duy nhất mà cái ví của ta cho phép, như
Balzac từng khám phá ra đến khi đến Ba Lê. Đi bộ để khử tà. Đi bộ thay
vì khóc. Đi bộ với hy vọng hão huyền tê tái may ra gặp một bộ mặt thông
cảm. Đi bộ, đi bộ, đi bộ, đi bộ... Nhưng tại sao lại bắt vào chuyện này
nhỉ? Thôi hãy gạt bỏ nó đi với cái nhãn hiệu “chứng cuồng cẳng” cho rồi.
Những
nỗi đau khổ của Moricand hẳn nhiên bút nào mà tả cho xiết. Cũng như
Job, hắn điêu đứng trăm chiều. Tuy thiếu cái đức tính của Job, hắn tỏ ra
không thiếu sức mạnh tinh thần. Có lẽ còn đáng kể hơn nữa là sức mạnh
ấy lại thiếu chỗ dựa. Hắn cố hết sức giữ thể diện. Ít khi hắn buông
trôi, ít ra thì cũng trước mặt tôi. Những khi đó, những khi thấy hắn
khóc, tôi không tài nào chịu nổi. tôi không biết phải nói gì, phải làm
gì. Cái đau khổ hắn phải chịu đựng là một cái đau khổ đặc biệt, cái đau
khổ của một con người không hiểu nổi tại sao hết cả mọi người lại chỉ có
riêng mình phải chịu hình phạt. Hắn khiến tôi tin bằng cách nói xa nói
gần rằng hắn chưa từng có chủ ý hại ai bao giờ. Trái lại, bao giờ hắn
cũng tìm cách giúp đỡ. Hắn tin chắc và tôi tin là hắn chân thật, rằng
hắn không nghĩ điều gì ác, không có ác ý với ai. Thật ra nó chưa hề,
chẳng hạn nói xấu kẻ đã làm hắn phải thân tàn ma dại. Hắn hoàn toàn đổ
lỗi cho mình đã quá tin người. Làm như thể lỗi ở hắn chứ không phải lỗi ở
kẻ kia đã lợi dụng lòng cả tin của hắn.
Dở chút khôn lanh của mình
ra, vì về những vấn đề thực tế tôi cũng chẳng hơn gì hắn, tôi mới có cái
ý đi tán bạn bè lấy số tửu vi để cho Moricand kiếm chút tiền còm. Tôi
đề nghị mỗi lá số giá một trăm quan, để rồi trả cho năm chục là vừa. Hồi
đó, một bữa cơm ngon lành chỉ khoảng mười hai hay mười lăm quan. Còn
tiền phòng của Moricand thì mỗi tháng chỉ chừng ba trăm quan trở lại.
Như
thế cũng tạm đỡ cho đến khi điểm mặt các bạn bè không còn ai nữa. Lúc
đó, không lẽ bỏ mặc Moricand, tôi mới bịa ra người này người nọ. Nghĩa
là tôi cho hắn tên tuổi, ngày sinh tháng đẻ, giờ sinh, của những ông
những bà toàn là không có. Dĩ nhiên tôi phải nai lưng ra trả tiền các lá
số ma. Anh chàng đâu có ngờ gì những chuyện như thế, vẫn tấm tắc khen
trong số các thân chủ, hoặc hỏi dồn tôi những chi tiết tỉ mỉ hơn và dĩ
nhiên tôi cũng sẵn sàng cho biết với cái vẻ thản nhiên như mình biết
thật.
Còn khi xem tướng, người ta phải chịu là Moricand có tài đoán.
Cái giác quan thứ sáu của hắn, theo lời hắn gọi, giúp hắn đoán số rất
hay. Nhưng thường khi hắn chả cần đến lá số, hay ngày sinh nơi sinh gì
cả. Thật không bao giờ tôi quên được cái bữa tiệc của nhóm tạp san
Volontés do Georges Pelorson làm chủ nhiệm. Trong nhóm chỉ có Eugene
Jolas và tôi là người Mỹ, còn thì là Pháp hết. Tối hôm ấy chũng tôi ngồi
ăn khoảng hai chục người. Món ăn ngon, rượu riếc lại nhiều. Moricand
ngồi đối diện tôi. Một bên hắn là Jolas, một bên hình như là Raymond
Queneau. Ai nấy đều vui vẻ, chuyện nổ như pháo rang.
Có Moricand
chẳng sớm thì chầy câu chuyện quay về tướng số. Mặt lạnh như tiền,
Moricand ngồi ăn sao cho thật đầy bụng. Và như thường lệ hắn chờ những
lời châm lẽ biếm.
Và rồi có một người nào đó hỏi một câu vớ vẩn. Thế
là bầu không khí trở nên ồn ào vui nhộn. Thôi thì không ai không hỏi.
Thế tất phải có một kẻ quá khích xuất hiện - tệ hơn nữa một kẻ điên
khùng. Chả vì Jolas, hơi men đã ngà ngà nên có phần hăng máu hơn thường
lệ, mới đòi Moricand phải nêu ra những bằng chứng xác thực. Anh thử
thách Moricand nói rõ từng tướng một của các người có mặt. Khi trò
chuyện với người này người kia, Moricand hẳn cũng đã nhận người nào ra
sao rồi. Nghề tướng số mà không nhận xét tướng thiên hạ sao được. Đối
với hắn, đó là chuyện hằng ngày, nói với ai là để ý từng cách nói, từng
cử chỉ, từng cố tật, từng dáng điệu, từ vóc dáng cho đến tính tình họ,
thôi thì đủ hết. Hắn thừa khôn ngoan, thừa lão luyện, để nhận định và
phân loại các tướng mạo có phần lộ liễu ngồi ăn hôm đó. Thế là hắn chỉ
từng người một và gọi ra vanh vách người tướng Hải Sư, tướng Kim Ngưu,
tướng Thiên Xứng, kẻ tướng Xử Nữ, tướng Hổ Cáp, tướng Nam Dương không
sót một ai. Đoạn quay lại Jolas, điềm nhiên bảo anh hắn có thể nói ngày
sinh tháng đẻ của anh, và không chừng cả giờ sinh là khác. Nói xong, hắn
lấy điệu, hơi ngước đầu lên, như thể hỏi trời là ngày nào, rồi nói đúng
ngày đúng tháng đúng năm nào, và ngưng một lúc nói luôn cả giờ sinh.
Hắn nói đúng không sai một ly. Jolas ngẩn người chưa kịp thở thì
Moricand bồi thêm vài chi tiết thầm kín hơn về quá khứ của anh, những
điều mà ngay cả các bạn thân của Jolas cũng không hề hay biết. Hắn nói
anh thích gì ghét gì; hắn nói anh từng đau những chứng bệnh gì và rồi sẽ
mắc những chứng bệnh gì; hắn nói tất cả những gì mà chỉ có người nào có
tha tâm thông mới biết nổi. Nếu tôi không lầm thì hình như hắn còn cho
biết cả có một cái bớt nằm chỗ nào (Lời nói mò này là lá bài ruột của
Moricand thích đưa ra mỗi khi nắm chắc được mọi yếu tố trong tay. Cũng
là một lối ký tên mình vào tấm lá số).
Đó là một dịp hắn xuất thần.
Còn thì có khi mơ hồ hơn, có khi rắc rối hơn. Nhưng mỗi khi hắn xuất
thần thì quả là tuyệt diệu. Còn tuyệt diệu hơn cả một buổi cầu cơ.
Nhớ
lại các buổi trổ nghề này, tôi không khỏi nhớ đến căn phòng hắn ở trên
thượng tầng khách sạn. Dĩ nhiên là làm gì có thang máy. Phải leo năm sáu
lần thang mới lên đến nơi. Một khi vào phòng rồi, người ta không còn
biết gì đến thế giới bên ngoài. Đó là một căn phòng méo mó đủ rộng để đi
đi lại lại, hoàn toàn trang trí bằng những đồ còn sót lại của cơ nghiệp
Moricand. Bước vào, cái cảm tưởng đầu tiên là ngăn nắp. Mọi cái đều đâu
vào đấy, và nằm đúng chỗ. Từ cách đặt chiếc ghế, một mỹ phẩm đến con
dao xén giấy, chỉ xê xích vài ly thôi cũng là hỏng - ít ra cũng theo đầu
óc của Moricand. Ngay cả cách xếp dọn cái bàn viết của hắn cũng bộc lộ
cái ám ảnh ngăn nắp này. Không chỗ nào bất cứ lúc nào lại có một vết
bụi. Tất cả đều sạch bong.
Chính con người hắn cũng na ná thế. Lúc
nào sơ mi cũng sạch cũng hồ, áo quần thẳng nếp (chắc hắn là lấy), giày
bóng lộn, cà vạt thắt ra sao và dĩ nhiên ăn màu với sơ mi, mũ, áo ngoài,
dép, và các thứ linh tinh xếp gọn đâu vào đấy trong tủ. Một điều mà hắn
nhớ mãi về đời lính của hắn thời Thế chiến thứ Nhất - chả là hắn gia
nhập đoàn Lê Dương - là sự dơ dáy mà hắn bị buộc phải chịu đựng. Có lần
hắn kể tôi nghe rất tỉ mỉ là hắn đã cởi hết quần áo và rửa ráy từ đầu
đến chân bằng tuyết ướt (trong chiến hào) chỉ vì đêm hôm đó một anh bạn
đồng ngũ đã mửa văng lên hắn. Tôi có cảm tưởng thà hắn trúng đạn còn hơn
là bị tai họa như thế.
Điều mà tôi nhớ mãi trong đầu óc về cái thời
kỳ này là tuy nghèo rớt mùng tơi hắn vẫn khư khư giữ được cái vẻ thanh
lịch và cầu kì. Trông hắn lúc nào cũng như một tay môi giới áp phe gặp
phải lúc làm ăn khó khăn hơn là một kẻ đường cùng mạt vận. Quần áo hắn
mặc đều cắt đẹp, hàng lại thuộc loại hảo hạng, nên cũng còn mặc được
mười năm nữa, nhất là hắn lại giữ gìn rất cẩn thận. Dù cho có vá chăng
nữa, hắn trông vẫn là con người biết ăn biết mặc. Không như tôi, hắn
không bao giờ có ý nghĩ đem cầm đem bán quần bán áođể ăn. Hắn cần phải
quần áo chỉnh tề. Dù cho có phải đoạn giao với giới cao sang quyền quý,
hắn vẫn phải giấy rách giữ lấy lề. Ngay cả thư từ giao dịch thông
thường, hắn vẫn dùng giấy tốt. Lại phảng phất mùi thơm là khác. Chữ hắn
viết rõ ràng biểu lộ những tính tình mà tôi đã nói. Thư từ của hắn, cũng
như các thủ bản và các lá số hắn viết, đều mang dấu hiệu của một sứ giả
vương mệnh, của một con người cân nhắc từng lời từng chữ, vả đã nói ra
thì dù phải chết cũng không thay đổi.
Trong động hắn có một vật mà
suốt đời tôi sẽ không bao giờ quên. Chiếc tủ kính. Thảng hoặc tối nào,
thường sau khi trò chuyện đã hơi khuya, tôi lần lại gần tủ, đợi dịp hắn
không để ý, tôi vội luồn một tờ năm chục hay một trăm quan dưới pho
tượng nhỏ để trên đầu tủ. Tôi vẫn thường phải làm thế, vì nếu trao tiền
tận tay hắn hay bỏ phong bì gửi đến sẽ làm hắn ít nhất cũng ngượng
ngùng. Mỗi lần, khi ra về, tôi có cái cảm tưởng là hắn đợi cho tôi có đủ
thì giờ đến trạm Mê-trô gần đấy rồi vội lẻn ra lại quán rượu quanh đó
làm một đĩa cải xào trứng.
Tôi cũng xin nói rằng tôi phải giữ ý không
bao giờ nói mình thích một cái gì của hắn, vì nói ra thế nào hắn cũng
ép mình phải nhận lấy cho kì được, chẳng khác gì người Tây Ban Nha. Dù
tôi bảo tôi thích chiếc cà vạt hắn đang mang hay chiếc can hắn đang cầm,
thì cũng vậy. Can hắn có không ít. Cũng vì vô tình như thế mà tôi được
tặng chiếc can của Moishe Kisling đã tặng hắn. Có lần tôi đã vận dụng
hết tài ăn nói của mình ra để từ chối cặp khuy măng sét bằng vàng duy
nhất của hắn mà hắn nằng nặc bảo tôi cầm lấy. Tôi chưa bao giờ dám hỏi
hắn tại sao hắn cứ phải mang măng set hồ cứng và khuy vàng. Thế nào hắn
chả trả lời rằng hắn không có sơ mi nào khác.
Trên giường, cạnh cửa
sổ, nơi kê chiếc bàn viết, hắn thường găm dăm tấm lá số mà hắn đang
nghiên cứu. Hắn găm sẵn đấy như người chơi cờ tướng sắp sẵn bàn để tính
nước đi. Hắn cho rằng phải cần một thời gian để đoán chắc chắn. Lá số
của hắn cũng găm cạnh các lá kia trong một khung riêng.
Chốc chốc hắn
lại dò, như nhà hàng hải dò phong vũ biểu. Khi nào hắn cũng chờ một
“ngõ mở”. Hắn bảo tôi, trong một lá số, khi mọi lối thoát đều bị bít,
thì chết là cái chắc. Hắn quả quyết rằng khó mà nói trước được là lúc
nào chết. Khi người ta chết rồi thì dễ thấy quá; lúc đó cái gì cũng rõ
như ban ngày, cũng có thể thấy đúng từng ly từng tí một.
Tôi còn nhớ
rõ những đường bút chì xanh đỏ hắn vạch để cho thấy sự thăng trầm của
vận hạn may rủi trên lá số hắn. Cũng chẳng khác nào nhìn quả lắc đu đưa,
đu đưa một cách chậm chạp mà chỉ người nào vô cùng kiên nhẫn mới có can
đảm theo dõi. Đưa về bên này một chút là hắn mừng rơn; đưa sang bên kia
một chút là hắn buồn rượi. Hắn chờ đợi gì ở một “ngõ mở” tôi không rõ,
vì có bao giờ thấy hắn chuẩn bị làm một sự cố gắng nào để cải thiện hoàn
cảnh hắn đâu. Có lẽ hắn không chờ đợi gì hơn là một hơi gió thoảng. Cứ
xem cái tính khí của hắn chỉ có nằm chờ sung rụng. Sung đây chẳng phải
là một việc làm, vì việc làm đối với hắn chả nghĩa lý gì. Hắn chỉ muốn
độc một cái là cứ tiếp tục các cuộc nghiên cứu của mình. Xem ra thì hầu
như hắn đã an phận với hoàn cảnh eo hẹp của mình. Hắn không phải là một
con người hoạt động, không phải là một nhà văn xuất sắc hi vọng một ngày
kia nhờ ngòi bút giải phóng được bản thân mình, hắn cũng chẳng mềm dẻo
để chịu khuất thân xin xỏ. Hắn là Moricand, có thế thôi, cái con người
đã được phơi bày rõ ràng trên tấm lá số chính hắn đã lập. Một “số kiếp”
Thổ tinh hãm địa, chưa kể đến những cái khác. Một thầy tướng số buồn
rượi trong những giờ phút tuyệt vọng cố rút tỉa một tia hứa hẹn mong
manh ở ngôi sao bản mệnh của mình. Nói tóm lại, một số kiếp phải chịu
một đời đau khổ chật hẹp.
Tôi thường bảo hắn, “Trăng có tuần, sông có
khúc, người ta ai chẳng có lúc này lúc khác. Trời đâu phải mưa hoài! Vả
lại “tái ông mất ngựa” biết đâu được!”
Nếu thấy hắn chịu nghe tôi
còn nói thêm: “Tại sao anh không quăng cha nó đi sao với siếc? Tại sao
không đi chơi đâu, không làm như thể ta đang gặp vận? Biết chừng đâu gặp
thật cũng nên! Biết chừng đâu gặp một người nào đó ở ngoài đường, một
người lạ hoắc, mà lại là người giúp ta mở những cánh cửa mà anh cho là
khóa chặt. Biết đâu lại chẳng có phép màu. Nó có thể đến, anh biết chứ,
nếu anh vui vẻ lên, nếu anh chuẩn bị cho một cái gì đó nó đến. Nếu anh
hãy quên đi những cái gì viết ở trên trời”.
Những khi tôi nói thế,
hắn nhìn tôi bằng một cái nhìn kỳ dị mang rất nhiều ý nghĩa. Hoặc hắn
cười mỉm, một cái cười mỉm dịu dàng, thương xót, của bậc làm cha mẹ khi
con dại nói một điều không thể có. Hắn cũng chẳng vội đáp lời tuy đã sẵn
câu để đáp và có lẽ cũng chẳng buồn đáp khi bị hỏi dồn như thế. Trong
cái im lặng sau đó, nó có vẻ như đang suy nghiệm lại các tín niệm của
mình, đang rảo qua (hàng ngàn lần) tất cả những gì hắn từng nói từng
nghĩ về điều này, cả đang tiêm cho mình một mũi thuốc ngờ, đang bới rộng
đào sâu vấn đề, đang cho vấn đề những chiều kích mà tôi hay không ai
tưởng tượng nổi, rồi mới chậm rãi, trịnh trọng, lạnh lùng và đanh thép
bắt đầu bào chữa lập trường của mình.
Tôi còn văng vẳng nghe hắn nói,
“Này cậu, người ta phải hiểu rõ thế nào là may rủi. Vũ trụ chuyển hành
theo định luật, và các định luật này áp dụng cho số mệnh con người cũng
như cho sự phát sinh và vận hành của các tinh tú. “Dựa lưng trên chiếc
ghế xoay thoải mái, quay lại nhìn thẳng lá số của mình, hắn tiếp tục:
“Nhìn cái đường đó xem!” ý hắn muốn nói cái đường bế tắc đặc
biệt, riêng biệt, mà hắn đang nhìn chăm chú. Đoạn mở chiếc cặp khi nào
cũng kề bên tay, hắn nói hết sức trịnh trọng: “Cái may độc nhất của tôi
lúc này là cậu. Thì cậu hiện ngồi đây!” Và hắn giảng giải
cho tôi thấy mình ăn khớp ra sao và ở chỗ nào trên lá số. “Cậu và nàng
tiên Anaϊs kia. Không có hai người thì đời tôi kể như chấm dứt!”
Tôi
mới nói: “Nhưng tại sao anh không chịu nhìn một cách thực tế hơn? Nếu có
Anaϊs và tôi , nếu anh cho chỉ có chúng tôi là đáng kể thì tại sao anh
không tin tưởng ở với chúng tôi? Tại sao anh không để chúng tôi giúp anh
tự giải phóng? Có cái gì mà người ta lại không thể làm cho người khác,
phải không?”
Dĩ nhiên là hắn đã sẵn có câu đáp. Cái thất bại lớn cho
hắn là hắn có câu đáp cho bất cứ cái gì. Hắn không phủ nhận sức mạnh của
lòng tin. Điều hắn muốn nói thật ra chỉ là hắn là một con người thiếu
hẳn lòng tin. Cái thiều hẳn lòng tin đó nằm sờ sờ trên lá số. Biết làm
sao bây giờ? Điều mà hắn quên không nói thêm là hắn đã lựa chọn con
đường tìm hiểu và vì thế hắn đã tự xén cụt cánh mình.
Hàng bao năm
sau hắn mới chịu xét lại cái bản chất và nguồn gốc của sự cắt xén này mà
hắn gọi là thiếu lòng tin. Cũng vì thuở thiếu thời, bị cha mẹ bỏ bê,
các thầy học lại khắc nghiệt bỉ ổi, nhất có một lão hành hạ hắn, làm
nhục hắn một cách dã man. Cả một câu chuyện nhơ nhuốc, ghê tởm, nghe qua
cũng đủ hiểu tại sao hắn đã bạc nhược, sa đọa tinh thần đến thế.



[1] Nhà xuất bản Au Sans Pareil, Paris, 1928.


Khi
nào cũng vậy, trước chiến tranh, lòng người dao động. Khi chiến tranh
gần tàn, mọi cái đều bị bóp méo, phóng đại, dồn dập. Bọn người có của
lăng xăng như ong kiến, lo phân phối lại tài sản cơ nghiệp, nhà cửa, du
thuyền, công phiếu cổ phần hầm mỏ, vàng bạc châu báu, nghệ phẩm. Hồi ấy
tôi có một anh bạn thân thường bay đi bay lại từ lục địa này sang lục
địa kia làm môi giới cho các khách hàng hoảng hốt này đua nhau tìm cách
thoát thân. Những chuyện hắn kể tôi nghe thật động trời. Tuy nhiên rất
quen thuộc. Quen thuộc đến phát tởm. (Có ai có thể tưởng tượng triệu phú
mà đông như lính không?) Cũng động trời không kém là những câu chuyện
của một anh bạn khác kể, một kỹ sư hóa học, thường gặp tôi ăn cơm, những
khi đi xa về như Trung Hoa, Mãn Châu, Mông Cổ, Tây Tạng, Ba Tư, A Phú
Hản, bất cứ nơi đâu có chuyện quỷ khốc thần sầu. Và khi nào cũng từng ấy
chuyện - thủ đoạn, cướp bóc, hối lộ, lừa đảo, âm mưu, thôi thì đủ các
trò quỷ quyệt gian manh. Chiến tranh còn một hai năm gì đó mới dứt, mà
các triệu chứng đã lồ lộ không sao lầm được - không phải chỉ cho Thế
chiến thứ Hai mà cho mọi chiến tranh, mọi cuộc cách mạng tiếp diễn sau
đó.
Ngay cả bọn “lang bạt kỳ hồ” cũng bị xua ra khỏi ổ. Kể cũng lạ,
không biết hàng bao nhiêu thanh niên trí thức đã bị hoang mang, thất cơ
lỡ vận, xô ngược đẩy xuôi như những con cờ phục vụ cho những quan thầy
vô danh. Không ngày nào không có những kẻ bất ngờ nhất đến tìm tôi. Đầu
óc tên nào cũng chỉ có một câu hỏi: khi nào? Cho đến khi đó xoay xở được
cách nào thì cứ xoay đi cái đã! Và chúng tôi xoay, chúng tôi cố bám cho
đến chuyến tàu chót.
Trong cái bầu không khí phởn phơ bừa bãi đó,
Moricand không dự phần. Hắn không phải là thứ người mời đến chè chén
xong rồi phá làng phá xóm, hay say sưa túy lúy, hay bị cảnh sát bố ráp.
Thật vậy, không khi nào tôi lại nghĩ chuyện mời hắn vào những buổi ấy.
Mỗi lần mời hắn ăn, tôi chọn lọc cẩn thận vài ba anh bạn cùng ăn. Thường
thì lần nào cũng vẫn những bộ mặt ấy. Những bạn tướng số cả.
Có lần
hắn đột ngột đến tôi, với Moricand ra ngoài nghi thức như thế là chuyện
hiếm. Hắn có vẻ hân hoan và bảo tôi rằng cả buổi chiều hắn la cà ngoài
bờ sông. Rồi hắn rút trong túi ra một gói nhỏ đưa tôi. Giọng cảm động
hắn nói: “Tặng anh!” Nhìn cách hắn nói tôi hiểu là hắn tặng tôi một món quà hẳn tôi phải thích lắm.
Cuốn sách ấy, vì đúng là cuốn sách, là cuốn Seraphita của Balzac.
Nếu không nhờ cuốn Seraphita
tôi không chắc sự giao du của tôi với Moricand lại đã chấm dứt như đã
chấm dứt. Rồi đây người ta sẽ thấy tôi đã trả món quà quý báu này với
cái giá ra sao.
Đến đây có điều tôi muốn nhấn mạnh là, đồng thời với
cái xôn xao của thời ấy, cái dồn dập, cái xáo trộn mà không ai không bị,
nhất là các nhà văn, riêng trường hợp tôi, dù sao, tôi cũng nhận thấy
mạch văn của mình chạy nhanh hơn. Những kẻ ngẫu nhiên tôi gặp, những
chuyện xảy ra hàng ngày mà người khác không buồn đếm xỉa, đối với tôi
lại có một tầm quan trọng rất đặc biệt. Cả một sự liên hệ không
những kích thích hào hứng mà thường khi còn huyền ảo. Cứ đi một vòng ra
ngoại ô Ba Lê - Montrouge, Gentilly, Kremlin - Bicêtre, Ivry - cũng đủ
làm tôi ngây ngất cả ngày. Tôi thích được ngây ngất, trật đường, lạc
hướng ngay từ sáng sớm. (Những cuộc đi dạo mà tôi nói đây là những “cuộc
đi dạo cho khỏe người”, trước khi ăn sáng. Tâm trí thảnh thơi trống
rỗng, tôi dưỡng sức cho khỏe cả về thể chất lẫn tinh thần để ngồi đánh
máy được lâu). Từ con đường Tombe-Issoire, tôi đâm ra các đại lộ, rồi ra
ngoại ô, mặc tình cho chân mình đưa bước. Lộn lại, khi nào tôi cũng
hướng về Công trường Rungi có liên quan gì đó với vài đoạn trong cuốn
phim Tuổi Vàng (L’Âge d’Or), và nhất là với Luis Bunuel. Với những tên
nghe kỳ quặc, với bầu không khí chẳng phải của ai, với đủ loại nhãi ranh
và quỷ quái kêu la ơi ới từ một thế giới nào khác, nơi đây đối với tôi
là một khu vừa hấp dẫn vừa quái đản. Thường tôi hay ngồi trên một chiếc
ghế dài ngoài lộ, nhắm nghiền mắt lại trong một lúc để thả mình chìm
xuống, rồi bừng mở mắt nhìn cảnh vật với cái nhìn không đâu của kẻ mộng
du. Nào dê từ ngoại ô, cầu tàu, bao nước, phao, khung sắt, cầu phao và
cào cào lượn qua tròng mắt long lanh của tôi cùng những gà vịt không
đầu, những gạc hươu quấn băng, những máy khâu rỉ, những tượng rỉ nước
cùng nhiều hình thù kỳ dị khác. Đây không phải là một khu người ở, một
khu ngoại ô, mà là một véc-tơ, một véc-tơ hoàn toàn tạo riêng cho nghệ
thuật tôi, tạo riêng để buộc tôi vào cái nút cảm xúc. Đi ngược đường
Fontaine đến Mulard, tôi cố nén cái đê mê của hồn mình, cố ghi lấy giữ
lấy trong đầu mình (cho đến sau bữa ăn sáng) ba cái hình ảnh hoàn toàn
rời rạc mà nếu đúc kết chúng lại được với nhau, tôi mới có thể chèn thêm
được gì vào một đoạn gay go (của cuốn sách tôi) mà hôm trước tôi không
thể nào chèn nổi. Con đường Brillat-Savarin, như con rắn luồn qua công
trường Rungis, làm thăng bằng các công trình của Eliphas Lévi, con đường
Butte aux Cailles (đi tới nữa) nhắc nhở lại các Chặng đường của Thánh
giá, con đường Félicien Rops (ở một góc khác) kéo chuông vang lên làm
**** câu vỗ cánh bay vù. Nếu gặp lại lúc đang ngà ngà say, như tôi
thường say, tất cả những liên tưởng, những dị hình và xen lẫn này lại
càng thêm sống động, thêm màu sắc diễm ảo. Vào những ngày như thế, có
nhận được ngay trong mớ thư từ đầu bản hai hay bản ba tờ Kinh Dịch,
tập hình Scriabin, tập sách nhỏ kể lại cuộc đời James Ensor, hay tập
tiểu luận về Pico della Mirandola, cũng chả có gì thú vị. Cạnh bàn tôi,
còn thừa lại các buổi chè chén vừa qua, những chai rượu không khi nào
cũng được xếp dọn gọn gàng: Nuits Saint-Georges, Gevrey-Chamberlain,
Clos-Veugot, Vosne Romanée, Merusault, Traminer, Château Haut - Brion,
Chambolle-Musigni, Montrachet, Beaune, Beaujolais, Anjou, và thứ “rượu
thích hơn hết” của Balzac là Vouvray. Toàn các bạn quen, dù nốc không
còn một giọt. Có chai còn thoang thoảng hương vị.
Ăn sáng, tại nhà. Cà phê sữa đậm nóng, vài ba chiếc croissant còn nóng ngon lành với ít bơ ngọt và chút mứt. Và điểm thêm chút Segovia. Đế vương thì cũng chỉ thế là cùng.
Phì
phà ống điếu một chút, xỉa răng, ngón tay ngứa ngáy, rảo mắt quanh một
lượt (như để xem cái nào cái nấy đâu vào đó chưa!), khóa cửa lại, đặt
đít trước bàn máy. Thế là làm. Đầu tôi nóng bừng.
Nhưng tôi phải mở
cái ngăn kéo nào của cái đầu óc “tủ Tàu” của tôi trước đây? Mỗi ngăn
chứa một bí quyết, một toa, một công thức. Có cái hàng 6.000 năm trước
Thiên chúa. Có cái còn xưa hơn nữa.
Trước hết tôi phải phủi bụi đi
cái đã. Nhất là bụi Ba Lê, quá mịn, quá ngấm, gần như vô hình. Tôi phải
lặn xuống các nguồn rễ Williamsburg, Canarsie, Greenpoint, Hoboken, Kênh
Gowanus, Erie Basin, đến các bạn ấu thời nay đã trở về với cát bụi, đến
những tiên cảnh như Glendale, Glen Island, Sayville, Patchogue, đến các
công viên, các vũng biển giờ đây biến thành ổ rác. Tôi phải nghĩ bằng
tiếng Pháp viết bằng tiếng Anh, ngồi không nhúc nhích và nói ba hoa,
đóng vai kẻ khôn và vẫn là kẻ dại hay đần. Tôi phải làm thăng bằng những
gì không thăng bằng mà không ngã khỏi đây. Tôi phải làm xây xẩm mặt mày
cây đàn thất huyền mang tên là Brooklyn Bridge nhung không làm mất cái
mùi vị, hương thơm của Công trường Rungis. Cái lúc này phải là lúc đầy
ặp cơn nước triều của sự Trở về Vĩ đại...



Ta
hãy nhìn lại quá khứ. Năm ấy là năm 1939. Tháng ấy là tháng Sáu. Tôi
không đợi quân Đức đến nơi rồi mới chạy tán loạn. Tôi đi nghỉ mát. Vài
giờ nữa là tôi đi Hy Lạp.
Tất cả những gì tôi còn bỏ lại ở cái văn
phòng tại Biệt thự Seurat là lá số của tôi viết bằng phấn trên tấm vách
đối diện cửa ra vào. Để cho người đến thay tôi suy nghiệm. Chắc chắn là
một sĩ quan chiến tuyến. Có lẽ một học giả.
À mà còn cái gì nữa, trên một vách khác, cao gần trần, có hai câu thơ:



Giờ đây trái đất phải chìm.
Giờ đây một phép màu phải đến.



Một
ngày nào đó, nếu tôi tậu được một ngôi nhà có căn phòng rộng và tường
để không, tôi có ý thiết lập một bản đồ hay đồ thị rất lớn thuật lại đời
các bạn bè của tôi còn rõ hơn là viết sách, và một bản nữa thuật lại sự
tích các văn phẩm trong đời tôi. Mỗi bức trên một bức tường đối diện
nhau thấm nhuần nhau, tẩy xóa nhau. Không ai hi vọng sống được lâu để
viết hết những chuyện, những kinh nghiệm khôn lường này thành chữ. Chỉ
có một cách ghi lại thành biểu tượng, thành đồ hình, như các tinh tú
viết lại cái bí mật lấm chấm của chúng trên bầu trời vậy.
Tại sao tôi
nói thế? Bởi vì trong thời gian này - có quá nhiều để làm, quá nhiều để
xem, để nếm, để hàng bao thứ khác - quá khứ và tương lai đồng qui một
cách rõ ràng chính xác đến nỗi không những bạn bè sách vở mà cả các sinh
vật, sự vật, mộng mơ, sử biến, đền đài, phố xá, tên các nơi chốn, các
cuộc đi dạo, gặp gỡ, chuyện trò, mơ tưởng, chợt nghĩ, tất cả đều nổi
bật, đều gãy thành góc cạnh, thành vực, thành sóng, thành bóng, bộc lộ
cho tôi cái yếu tính và ý nghĩa của chúng trong một toàn thể hòa hợp và
dễ hiểu.
Nói về bạn bè, tôi chỉ cần nghĩ một lúc là đã gợi ra cả một
đại đội hay một đại đoàn. Chả cần phải khó nhọc, họ tự xếp thành hàng
sâu rộng, ảnh hưởng, lâu mau, gần xa, trọng lượng và mật độ tinh thần,
và này khác. Khi họ đứng vào vị trí tôi thấy như mình bay bổng trên
không với cái tốc độ và nhịp điệu của một thiên thần đãng trí, tuy nhiên
giao tiếp lần lượt với từng người một tại đúng cái điểm hoàng đới phải
giao tiếp và đúng cái lúc, xấu hay tốt, mà định mệnh đã an bài. Họ lố
nhố hiện ra. Người thì liệm màn sương, người thì chằm chằm như lính gác,
người thì cứng nhắc như bóng băng sơn, người thì úa héo như hoa mùa
thu, người thì chạy về cõi tử, người thì lăn trên bánh xe cao su như
những kẻ say, người thì hì hục len lỏi qua những mê lộ vô cùng tận,
người thì đi giày trượt trên đầu bạn bè như thể bọc trong ánh tuyết,
người thì cử tạ nặng ngàn cân, người thì dính chặt vào sách vở mà họ
đang đào, người thì cố bay lên tuy chân bị xiềng xích, nhưng tất cả đều
sống động, đều có tên, đều được xếp loại, phân hạng theo nhu cầu, nông
sâu, sáng suốt, mùi vị, thân khí, hương thơm và nhịp mạch. Có người bị
treo như những hành tinh đỏ rực, có người như các tinh tú xa tít lạnh
lùng. Có người mọc mầm nhanh như chớp, như sao mới, đoạn tan thành bụi,
có người âm thầm đi, luôn luôn trong tầm gọi, như các vì sao tốt. Có
người đứng riêng ra, không phải kiêu kì nhưng như thể chờ được gọi đến -
như các nhà văn (Novalis, chẳng hạn) mà chỉ cái tên cũng đã đầy hứa hẹn
khiến người ta khoan dọc họ và chờ cho đến cái lúc lí tưởng kia nó
không bao giờ đến cả.
Còn Moricand, hắn không đóng một vai trò nào
trong cái hỗn độn lấp lánh này sao? Tôi không dám chắc. Hắn chỉ là một
phần của bối cảnh, một hiện tượng phù hợp với thời đại. Hiện giờ tôi còn
mường tượng hắn lúc đó ngồi yên không nhúc nhích. Len lén trong bóng
tối chập chờn, lạnh lùng, xám xịt, điềm nhiên, mắt long lanh với tiếng
“Ái dà!” lanh lảnh thốt ra cửa miệng. Như thể tự nhủ: “Ái dà! Biết rồi”.
Từng nghe nói trưứoc kia rồi. Đã quên từ lâu rồi. Ái dà! Còn phải nói!
Con mê lộ, con linh dương sừng vàng, mục tiêu khó đạt, nhà phiêu lưu mạo
hiểm, phiên chợ kiểu Beughel, bụng bị thương của con Bò cạp, vọng dụng
bánh thánh, pháp quan, thoát điên, loạn thần cộng sinh, con sạch sành cô
độc giữa bãi đá cuội hoang vu. Giữ cho vững, bánh xe đang quay nhè nhẹ.
Rồi đến lúc mà... Hắn vùi đầu trên các bản tính. Đọc theo một bàn tính
Geiger. Rút cây bút máy bằng vàng ra, viết lên giấy màu sữa tím: Vân ban
thạch, Proclus, Plotinus, Thánh Valentin, Julian tên bội giáo, Hermes
Trismegistus, Apollonius ở Tayana, Clause Saint-Martin. Trong túi áo hắn
có một ve nhỏ đựng nhựa mộc dược, dầu hương với chút xá xị rừng. Mùi
thánh đức! Ngón út tay trái đeo chiếc nhẫn ngọc thạch khắc dấu hiệu âm
dương. Hắn từ từ móc ra chiếc đồng hồ thau nặng đầu có nút lên dây và
đặt xuống sàn. Lúc đó 9 giờ rưỡi, giờ vũ trụ, sừng trăng muốn đảo, đường
hoàng đạo lấm chấm mầm sao chổi. Có cả Thổ tinh với ánh sáng đục mờ chỉ
điềm dữ. “Ái chà!” hắn thốt lên, như thể đóng đinh lời đoán của mình
“Tôi không quyết đoán gì cả. Tôi quan sát. Tôi phân tích. Tôi tính toán.
Tôi rút tỉa. Minh triết đang qui tụ, nhưng kiến thức thì chắc chắn lắm
rồi. Nhà mổ xẻ có dao, phu đào huyệt có cuốc xẻng, nhà phân giải có sách
mộng, thằng ngu có cái đầu lừa. Còn tôi, tôi đau bụng. Bầu không khí
khó thở quá, đá nặng quá không tiêu hóa nổi. Kali Yuga. Chỉ còn
9.765.854 năm nữa là chúng ta thoát khỏi hầm rắn. Cậu hãy can đảm lên!”




chính cái lúc này - có quá nhiều cái để làm, quá nhiều cái để xem, quá
nhiều cái để uống, quá nhiều cái để tiêu hóa - là lúc mà, như các sứ giả
từ các thế giới xa xăm tuy nhiên quen thuộc một cách lạ lùng, các sách
bắt đầu xuất hiện. nào Nhật ký của Nijinsky, Người chồng vĩnh cửu (The Eterual Husband), Tinh thần của Thiền (The Spirit of Silence), Giọng nói của im lặng (The voice of the Silence), Tập hợp tuyệt đối (The Absolute Collective), Sách các vong nhân của Tây Tạng (The Tibetan Book of the Dead), Nhà tu uyên bác (l’Eubage), Đời sống của Milarepa (The Life of Milarepa), Chiến vũ (War Dance), Các suy tư của một Nhà thần bí Trung Hoa (Musings of a Chinese Mystic)...
Về Đầu Trang Go down
https://duonghoalac-hoabinh.forumvi.com
 

Ác quỷ trên thiên đàng

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Về Đầu Trang 

 Similar topics

-
» Sáu con thiên nga
» Sự tích hoa Thiên Lý
» Một Phút - Đặng Kim Côn
» Còn thương rau đắng…
» Đường cao tốc Bắc King-Thiên Tân
Trang 1 trong tổng số 1 trang

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
HÒA LẠC HÒA BÌNH-EXPRESSWAY :: GIẢI TRÍ :: VĂN HỌC :: Truyện dài-
Chuyển đến