HÒA LẠC HÒA BÌNH-EXPRESSWAY
Chào mừng bạn đến với diễn đàn trang web Hòa Lạc - TP.Hòa Bình Expressway !
HÒA LẠC HÒA BÌNH-EXPRESSWAY
Chào mừng bạn đến với diễn đàn trang web Hòa Lạc - TP.Hòa Bình Expressway !
HÒA LẠC HÒA BÌNH-EXPRESSWAY
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.


 
Trang ChínhTìm kiếmLatest imagesĐăng kýĐăng Nhập
Thiết kế name card, độc đáo kết hợp màu sắc ấn tượng
In card visit nhanh, in card visit rẻ đẹp, in card visit ở Hà Nội
Chuyên photo A4-A0, photocopy giá rẻ
In nhanh poster đẹp tại Hà Nội
Nơi in tờ rơi, tờ gấp màu nhanh nhất tại Hà Nội
in card công ty xây dựng Trần Đăng Ninh
In màu a4-a3, photo coppy, giá rẻ năm 2014 tại Trung Hòa
in màu a4-a3 laser siêu rẻ, siêu đẹp, đặc biệt giá cả rất hợp lý — Hà Nội
Làm kỷ yếu, in kỷ yếu số lượng ít đẹp và trang nhã, thiết kế chuyên nghiệp chất lượng cao tại Hà Nội
In kỷ yếu giá rẻ nhất Hà Nội
In kẹp file, kẹp tài liệu giá cả cạnh tranh
Đường cao tốc Chongzun
Autorun Virus Remover 3.1.0422 - Ngăn chặn mọi virus autorun từ USB
Microsoft Security Essentials 2.1.1116.0 Final - Trình diệt virus miễn phí từ Microsoft
5 Antivirus miễn phí tốt nhất của năm 2011
[Phần mềm + Hướng dẫn]Tích hợp Hiren's BootCD 14.1 Rebuild và mọi phiên bản vào menu boot vào Ổ Cứng (HDD) và RAM cho Windows 7 !!!
[Phần mềm + Hướng dẫn]Tích hợp Hiren's BootCD 14.1 Rebuild và mọi phiên bản vào menu boot vào Ổ Cứng (HDD) và RAM cho Windows 7 !!!
TuneUp Utilities 2010 9.0.2020.2 Final - Bộ công cụ tối ưu hàng đầu cho PC
Hot! Driver.Genius.Pro v10.0.0.761 Final _Crack No Virus ---Update driver mới nhất -» CHUẨN KO CẦN CHỈNH->NHANH TAY HỐT NÀO :D
Your Uninstaller! 7.4.2011.12 (Updated 08.11.2011) _ Gỡ phần mềm hàng đầu !!!





















Share | 
 

 Cánh buồm đỏ thắm

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Go down 
Tác giảThông điệp
Admin
Admin
Admin
Admin

Tổng số bài gửi : 1754
Điểm : 6794
Ngày tham gia : 22/12/2010
Tuổi : 39
Đến từ : Hà Nội
Level: 39 Kinh nghiệm: 1754%
Sinh mệnh: 1754/100
Pháp lực: 39/100

NGƯỜI ĐIỀU HÀNH
Phù hiệu: Cánh buồm đỏ thắm POLLICE

Cánh buồm đỏ thắm Empty
Bài gửiTiêu đề: Cánh buồm đỏ thắm   Cánh buồm đỏ thắm Icon_minitimeTue Mar 15, 2011 7:52 pm

Cánh buồm đỏ thắm
Alexandre Grin



Chương 1: Lời tiên đoán

Lông-gren là thuỷ thủ của con tàu “ô-ri-on” chở được ba
trăm tấn. Anh đã làm việc trên con tàu đó mười năm và gắn bó với nó có
lẽ còn thân thiết hơn là con với mẹ. Nhưng cuối cùng thì anh phải bỏ con
tàu.

Chuyện xảy ra như thế này. Vào một trong những chuyến về thăm nhà hiếm
hoi, anh không thấy chị Mê-ri, vợ anh, từ xa đứng trên ngưỡng cửa vẫy
vẫy tay, rồi sau đó chạy tới đón anh, thở hổn hển chừng như đứt hơi. Bên
chiếc giường trẻ con - đồ vật mới trong căn nhà nhỏ của Lông-gren - anh
chỉ thấy bà hàng xóm với dáng vẻ đầy xúc động.

- Đã ba tháng rồi tôi phải chăm sóc nó đấy, - bà hàng xóm nói, - anh hãy nhìn con gái anh đi!

Lông-gren lặng người, cúi xuống đứa trẻ tám tháng đang chăm chăm nhìn bộ
râu dài của anh, rồi anh ngồi xuống, đầu cúi, tay vân vê bộ râu. Râu
anh ướt đầm vì mưa.

- Mê-ri chết bao giờ hở bác? - anh hỏi.

Người đàn bà kể lại câu chuyện buồn thảm, chốc chốc dừng lại nựng đứa bé
và qua? quyết rằng Mê-ri đã được lên thiên đường. Khi Lông-gren biết rõ
câu chuyện thì thiên đường đối với anh chẳng sáng sủa hơn nhà chứa củi
là bao nhiêu, và anh nghĩ rằng nếu như bây giờ có ca? vợ anh thì ánh lửa
của chiếc đèn nhỏ có thể là một niềm vui không gì thay thế được đối với
người phụ nữ đã đi vào xứ sở huyền bí.

Chừng ba tháng trước, người mẹ trẻ gặp phải chuyện không may. Hơn nửa số
tiền Lông-gren để lại, Mê-ri đã tiêu tốn vào việc chữa chạy sau lần đẻ
khó, vào việc chăm sóc sức khoẻ cho đứa trẻ sơ sinh. Thêm nữa, Mê-ri lại
đánh mất một số tiền tuy không nhiều nhưng rất cần cho cuộc sống của
hai mẹ con. Hoàn cảnh khó khăn đó đã buộc Mê-ri phải đến nhà Mê-néc vay
tiền. Mê-néc là chủ quán rượu, có một cửa hàng tạp hoá nhỏ. Y được coi
là kẻ giàu có.

Mê-ri đến nhà y vào lúc sáu giờ tối. Gần bảy giờ, bà hàng xóm gặp chị
trên đường đến thị trấn Li-xơ. Mê-ri vừa khóc vừa buồn bã kể rằng chị
phải đi lên phố để cầm chiếc nhẫn cưới. Chị nói thêm rằng Mê-néc đồng ý
đưa tiền cho chị, nhưng đòi chị phải yêu hắn. Mê-ri đành về không.

- Nhà cháu không còn gì ăn, bác ạ, - chị nói với bà hàng xóm. - Cháu
phải đi lên phố cố kiếm về ít tiền, rồi hai mẹ con gắng lần hồi cho đến
khi nhà cháu về.

Tối hôm đó trời vừa rét vừa có gió thổi, bà hàng xóm đã không ngăn được
Mê-ri đi lên phố vào ban đêm. “Cháu sẽ bị ướt, Mê-ri ạ, trời đang lất
phất mưa, cứ cái điệu gió này thì trời sắp mưa to đấy!”

Từ làng ven biển lên thị trấn Li-xơ ca? đi lẫn về nhanh cũng mất ít nhất
ba giờ, nhưng Mê-ri không nghe theo lời khuyên của bà hàng xóm. “Thôi,
cháu không muốn quấy qua? các bác nữa, - Mê-ri nói, - gần như nhà nào
cháu cũng từng vay bánh mì, chè hay bột. Đem cầm chiếc nhẫn này là xong
thôi bác ạ”. Mê-ri đi lên phố về, đến hôm sau thì lên cơn sốt cao, mê
sảng. Trời đêm lạnh giá đã làm chị bị viêm phổi nặng - theo lời ông bác
sĩ trên phố được bà già tốt bụng mời về cho biết. Một tuần sau, chiếc
giường đôi của Lông-gren đã trống không, bà hàng xóm đã dọn sang nhà anh
ở để chăm sóc trẻ. Đối với một người đàn bà goá bụa cô đơn như bà thì
việc đó không khó. “Thêm nữa - bà nói tiếp, - không có đứa bé ấy thì
cũng buồn”.

Lông-gren đi lên phố, thôi việc, từ biệt bạn bè rồi trở về nhà nuôi nấng
bé A-xôn. Khi đứa bé đi chưa vững thì bà hàng xóm còn ở lại trong nhà
Lông-gren, thay thế người mẹ quá cố chăm sóc nó. Nhưng khi A-xôn đi
vững, bước qua được ngưỡng của thì Lông-gren quyết định sẽ tự mình nuôi
dạy đứa trẻ. Anh cám ơn bà hàng xóm đã tận tình giúp đỡ anh. Rồi từ đấy,
anh sống cuộc đời cô đơn của người goá vợ, tập trung tất ca? ý nghĩ, hi
vọng, tình cảm và kỷ niệm của mình vào đứa trẻ.

Mười năm sống nay đây mai đó chỉ đem lại cho anh một số tiền rất nhỏ.
Anh bắt đầu làm việc. ít lâu sau, trong những cửa hiệu trên phố đã thấy
bày bán những đồ chơi do chính tay anh khéo léo làm ra - những chiếc
thuyền nhỏ, xuồng máy, thuyền buồm một boong, hai boong, tàu thuỷ, tàu
tuần dương, tóm lại tất ca? những gì anh đã gần gũi, những gì trong khi
làm việc đã phần nào thay thế cho anh cuộc sống ồn ào ngoài cảng, thay
thế được lao động đầy thơ mộng của những chuyến đi biển. Bằng công việc
đó, Lông-gren đã kiếm tiền để hai bố con có thể sống một cách tằn tiện.
Vốn là người ít giao du, sau khi vợ mất, Lông-gren lại càng trở nên kín
đáo, ít cởi mở hơn. Vào những ngày lễ, thỉnh thoảng người ta thấy anh
trong quán rượu, nhưng anh không bao giờ ngồi mà chỉ vội vàng uống một
cốc rượu ngay tại quầy rồi ra về, đáp lại lời thăm hỏi của mọi người một
cách vắn tắt: “Xin chào”, “Tôi đi nhé”, Vâng”, “Cũng thường thôi”. Anh
không thích tiếp khách. Khi có khách, anh khéo léo tỏ ý muốn họ về bằng
những lời nói bóng gió xa xôi hay những cớ do anh tưởng tượng ra. Những
lúc ấy, khách chỉ còn cách là nghĩ ra một lý do nào đó để cáo từ. Phần
anh cũng không thăm ai, vậy là giữa anh và dân làng có cái gì đó lạnh
lùng ngăn cách. Nếu như việc làm đồ chơi của anh phụ thuộc nhiều vào
công việc của dân làng thì quan hệ như thế có thể đem lại cho anh nhiều
khó khăn. Thức ăn dự trữ và các thứ hàng cần thiết anh mua trên thị trấn
- Mê néc không thể khoe khoang được rằng Lông-gren đã mua hàng ở cửa
hiệu của y, dù chỉ là một bao diêm. Anh tự mình làm mọi việc trong nhà
và tỏ ra rất chịu khó nuôi dạy con gái, một việc vốn phức tạp, không
phải của đàn ông.

A-xôn đã lên năm tuổi. Khi em ngồi trên đùi Lông - gren, chăm chú mân mê
chiếc cúc áo gi-lê hay ngộ nghĩnh hát những bài ca thuỷ thủ, Lông -
gren thường dịu dàng cười với con. Qua giọng hát con trẻ, những bài hát
ấy gợi nhớ đến con gấu thắt đai xanh đang vụng về nhảy múa. Vào thời
gian đó có một chuyện xảy ra bao trùm bóng đen lên ca? hai bố con.

Dạo ấy là đầu mùa xuân, thời tiết còn khắc nghiệt như mùa đông, nhưng
theo một kiểu khác. Khoảng ba tuần liền, gió bấc từ phía biển thổi mạnh
về miền đất lạnh.

Thuyền đánh cá được kéo lên bờ, xếp thành dãy dài trên bãi cát trắng tựa
như vây lưng những con cá khổng lồ. Không ai dám đi biển lúc tiết trời
như thế. Trên con đường duy nhất ở làng chẳng mấy khi gặp người nào rời
khỏi nhà. Cơn lốc lạnh lẽo từ những ngọn đồi ven biển thổi thốc vào chân
trời trống trải, biến không trung thành một trò tra tấn khắc nghiệt.
Suốt từ sáng đến tối, khói toa? trên những mái nhà dốc đứng trong làng
Ca-péc-na.

Nhưng những ngày gió bấc ấy lại làm Lông-gren thích ra khỏi căn nhà nhỏ
ấm cúng hơn là vào những ngày mặt trời toa? ánh vàng xuống mặt biển và
làng Ca-péc-na. Lông-gren đi đến chiếc cầu nhỏ dựng trên những hàng cọc
dài, rồi đứng ở tận cuối cầu mà ngậm tẩu hút thuốc dưới trời gió rét.
Anh nhìn những con sóng bạc đầu nối tiếp nhau đang dữ dội tràn vào bờ
tung bọt trắng xoá, những đợt sóng chạy ầm ầm lan khắp vùng chân trời
dông bão đen ngòm hệt như một đàn quái vật hung dữ đang lồng lộn trong
cơn tuyệt vọng tìm đến một niềm an ủi xa xôi. Những tiếng ầm ào, từng
loạt cột nước dựng lên và ca? những luồng gió tưởng như thấy được đang
vằm nát xung quanh từng đợt một thật đều, thật mạnh, làm dịu lại tâm hồn
đau đớn của Lông-gren, giảm đi nỗi buồn da diết, như đưa anh vào giấc
ngủ thật say.

Có lần, vào một trong những ngày ấy, đứa con trai mười hai tuổi của
Mê-néc tên là Khin trông thấy chiếc thuyền của bố buộc dưới cầu bị sóng
xô vào chân cầu chực làm vỡ mạn thuyền, bèn về nói lại với bố. Trước lúc
cơn bão kéo đến, Mê-néc quên kéo thuyền lên bờ cát. Y lập tức chạy ra
ngoài biển và nhìn thấy Lông-gren đang đứng hút thuốc tận cuối cầu, lưng
quay về phía y. Ngoài bờ biển, ngoài họ ra, không còn ai. Mê-néc ra đến
giữa cầu, bước xuống con nước như đang sôi sục và tháo dây buộc thuyền.
Y đứng trên thuyền, tay lần những chiếc cọc đỡ cầu và đưa thuyền vào
bờ. Y không mang theo mái chèo. Bỗng y lỡ đà không kịp bíu vào cái cọc
tiếp theo. Cùng lúc đó, một cơn gió mạnh ập đến quay ngược mũi thuyền ra
phía biển. Bây giờ thì dù có vươn ca? người, y cũng không thể với tới
chiếc cọc gần nhất nữa. Sóng gió chao đảo chiếc thuyền, cuốn nó vào
không gian chết chóc. Thấy thế, Mê-néc định nhảy xuống nước để bơi vào
bờ, nhưng quyết định của y đã quá muộn, bởi vì con thuyền đã trôi ra một
quãng xa ngoài phía cuối cầu, nơi nước sâu sóng to chắc chắn sẽ dìm y
chết. Khoảng cách giữa Lông-gren và Mê-néc đang bị cuốn ra ngoài xa lúc
ấy chỉ chừng mười xa-giên. Có thể cứu được Mê-néc, bởi vì ngay chỗ
Lông-gren đứng có một cuộn dây to treo ở đấy. Người ta để sẵn cuộn dây ở
đó để phòng khi thuyền về bến gặp sóng gió khó vào bờ thì ném nó xuống
thuyền.

- Lông-gren! - Mê-néc kinh hoàng kêu lên. - Sao anh cứ đứng yên như phỗng thế kia? Ta đang bị cuốn đi đây này! Ném dây xuống đi!

Lông-gren im lặng, thản nhiên nhìn Mê-néc đang luống cuống trong thuyền.
Chỉ có khói thuốc lá toa? ra nhiều hơn trên chiếc tẩu của anh. Anh chậm
rãi bỏ chiếc tẩu, như để nhìn rõ hơn điều đang xảy ra.

- Lông-gren! - Mê-néc kêu cứu. - Nghe thấy ta gọi chứ? Ta sắp chết đến nơi rồi, cứu ta với!

Nhưng Lông-gren không nói với hắn một lời nào, dường như anh không nghe
thấy tiếng gào tuyệt vọng của hắn. Chừng nào chiếc thuyền chưa bị cuốn
ra xa đến mức tiếng kêu cứu của Mê-néc không còn nghe thấy nữa, chừng ấy
Lông-gren còn đứng yên không nhúc nhích. Mê-néc khóc rống lên vì sợ,
van nài Lông-gren chạy về báo với dân chài, nhờ họ ra cứu, hứa cho tiền,
rồi lại đe doạ, chửi rủa, nhưng Lông-gren chỉ bước ra thêm mấy bước đến
tận sát mép cầu để không mất hút con thuyền đang bị sóng dồn lên dập
xuống.

- Lông-gren, - anh nghe thấy tiếng gọi mơ hồ như người trong nhà nghe người gọi từ trên mái, - cứu tôi với!

Lúc ấy, Lông-gren hít thật sâu rồi gào lên thật to cho không một lời nào của anh bị mất hút đi trong tiếng gió:

- Vợ tao cũng đã từng kêu cứu với mày như thế! Hãy nhớ lại điều đó đi, chừng nào mày còn sống, đừng quên, Mê-néc ạ!

Lúc đó tiếng gào im bặt, và Lông-gren trở về nhà. Khi tỉnh dậy, A-xôn
thấy bố đang ngồi bên ngọn đèn gần tắt, vẻ mặt hết sức đăm chiêu. Nghe
thấy tiếng con gái gọi, anh đến bên con, ôm chặt con mà hôn rồi kéo chăn
đắp lại cho con.

- Ngủ đi, con yêu của bố! - anh nói. - Còn lâu mới sáng, con ạ.

- Bố làm gì đấy?

- Bố vừa làm xong một đồ chơi xấu. Ngủ đi, A-xôn!

Ngày hôm sau, dân làng Ca-péc-na xôn xao bàn tán về chuyện Mê-néc bị mất
tích. Đến ngày thứ sáu thì người ta đem Mê-néc về làng, sống dở chết
dở, vẻ mặt đầy ác độc. Chuyện y kể chẳng mấy chốc lan truyền đi khắp các
làng lân cận. Mê-néc lênh đênh trên sóng biển cho đến chiều. Y đã phải
vật lộn với sóng nước lúc nào cũng chực dìm y xuống đáy biển, ca? người
va đập liên tiếp vào mạn thuyền và lòng thuyền mãi cho đến khi được
chiếc tàu Lu-crê-xi-a đi Kát-xét vớt lên. Bị cảm lạnh và phải sống qua
những giờ phút kinh hãi cực độ, y đã không sống thêm được bao lâu. Chưa
đầy hai ngày đêm sau y chết, trước khi chết y cầu mong cho Lông-gren gặp
phải mọi tai hoa. có thể có trên đời và trong tưởng tượng. Câu chuyện
về việc Lông-gren chứng kiến tai hoa. của Mê-néc mà không cứu giúp được
tô vẽ thêm bằng hơi thở nặng nề và rền rĩ của Mê-néc đã làm dân làng
Ca-péc-na kinh ngạc. Ca? làng chẳng còn mấy ai nhớ đến nỗi đau khổ nặng
nề mà Lông-gren đã phải chịu đựng, và cũng chẳng còn mấy ai hết sức đau
khổ về Mê-ri như Lông-gren đã đau khổ cho đến hết đời mình. Dân làng cảm
thấy kinh sợ, khó hiểu về thái độ im lặng của Lông-gren lúc đó. Cho đến
khi nói những lời cuối cùng cho Mê-néc Lông-gren đã đứng lặng yên,
không nhúc nhích, nghiêm nghị và trầm lặng như một người phán xét biểu
lộ sự khinh bỉ cực độ đối với Mê-néc. Sự khinh bỉ ấy còn đáng sợ hơn ca?
lòng căm thù, và điều này mọi người đều cảm thấy. Nếu anh hét lên, vung
tay múa chân hoan hỉ lộ rõ sự khoái trá khi thấy kẻ thù gặp nạn, hoặc
là bằng cách nào khác tỏ rõ sự đắc thắng của mình khi Mê-néc đang tuyệt
vọng, thì dân làng đã có thể hiểu được anh. Nhưng anh lại hành động khác
với họ, anh đã cư xử thật lạ lùng, thật đáng kinh ngạc, và bằng cách đó
anh đã đứng cao hơn những người khác. Nghĩa là anh đã làm một điều
không thể tha thứ được. Từ lúc ấy, không ai chào anh, không ai bắt tay
hay nhìn anh một cách vui vẻ hồ hởi nữa. Anh hoàn toàn xa cách với mọi
chuyện trong làng. Trẻ con trông thấy anh chạy theo đồng thanh hô:
“Lông-gren dìm chết Mê-néc!”. Anh không thèm để ý đến những chuyện ấy.
Hình như anh cũng không nhận thấy rằng khi anh xuất hiện trong quán rượu
hay ngoài bờ biển thì dân chài ở đấy đều im bặt, tránh xa anh như tránh
người mắc bệnh dịch hạch. Chuyện xảy ra với Mê-néc đã khoét sâu thêm sự
ngăn cách gữa Lông-gren với dân làng, trước kia còn chưa sâu sắc lắm.
Bây giờ khi sự ngăn cách đó trở nên sâu sắc thì hai bên đều thấy căm
ghét nhau và điều này đã ảnh hưởng đến ca? A-xôn.

Cô bé đã lớn lên mà không có bạn bè. Hai ba chục đứa trẻ cùng lứa tuổi ở
làng Ca-péc-na, khác nào chiếc bọt biển thấm nước, đã nhiễm phải định
kiến thô bạo của gia đình mà cơ sở của nó là uy tín tuyệt đối của cha
mẹ. Bọn chúng nhanh chóng tiếp nhận điều đó, như mọi đứa trẻ trên thế
giới, và tẩy chay cô bé A-xôn, loại bỏ em ra khỏi môi trường của chúng.
Điều này đã xảy ra một cách dần dà, bằng đe nẹt, doa. dẫm của người lớn.
Họ cấm đoán bọn trẻ chơi với A-xôn, thêu dệt những chuyện méo mó để rồi
cuối cùng, với đầu óc non nớt của chúng, bọn trẻ tự nhiên thấy sợ hãi
trước gia đình người thuỷ thủ.

Thêm vào đấy, lối sống cách biệt của Lông-gren làm cho mọi người càng dễ
bề đơm đặt vu khống. Người ta nói rằng thuỷ thủ Lông-gren đã từng giết
người ở đâu đó, và vì thế không được nhận làm trên tàu nữa, còn bản thân
anh bây giờ trở nên cô độc u sầu vì “bị lương tâm cắn rứt”. Bọn trẻ xua
đuổi A-xôn. Nếu cô bé lân la đến chơi với chúng, chúng ném đất vào em,
trêu chọc em rằng bố em đã từng ăn thịt người và bây giờ đang làm bạc
gia?. Lần nào A-xôn định đến gần bọn trẻ, em cũng bị cào cấu, đánh đập
thâm tím, em khóc lóc cay đắng và chịu đựng mọi biểu hiện khác của dư
luận xã hội, cuối cùng em cũng không còn cảm thấy bị nhục mạ nữa. Nhưng
đôi khi em vẫn hỏi bố em: “Bố ơi, sao họ không yêu bố con mình?”-
Lông-gren đáp: “Này, A-xôn, lẽ nào họ biết yêu? Cần phải biết yêu, nhưng
điều này thì họ không làm được”. - “Thế nào là biết yêu hở bố ?” -”Là
thế này, con ạ!”- Anh liền bế con gái lên và hôn thật lâu vào đôi mắt
đượm buồn của con, đôi mắt đang lim dim lại vì được âu yếm.

Những phút chơi đùa thích thú nhất của A-xôn là vào buổi tối hay ngày
lễ, khi bố em thu dọn hộp đựng hồ dán, đồ lề, các công việc đang dở dang
sang một bên, cởi chiếc tạp dề ra, ngậm tẩu thuốc và miệng rồi bế em
ngồi lên đùi mình. Những lúc ấy, A-xôn ngồi trong vòng tay nâng niu của
bố, vừa sờ mó những thứ đồ chơi khác nhau vừa hỏi bố về công dụng của
từng thứ đồ vật ấy. Lông-gren lại có dịp kể những chuyện thật ly kỳ về
cuộc sống và con người. Do chỗ trước đây Lông-gren đã sống một cuộc đời
nay đây mai đó, câu chuyện anh kể thường chứa đầy những sự kiện tình cờ,
lạ kỳ và đáng kinh ngạc. Lông-gren nói với con tên những loại dây dợ,
buồm, những vật dụng trên tàu, rồi dần dần say sưa chuyển từ lời giải
thích sang kể những tình huống khác nhau trong đó vai trò chính là cái
tời để tha? và cất neo, bánh lái, cột buồm hay một loại thuyền nào đấy,
và từ những minh hoa. cụ thể đó anh chuyển sang kể lại những cảnh đi
biển đầy phóng khoáng, kết hợp chuyện mê tín với chuyện thật, rồi chuyện
thật với các hình ảnh do anh hư cấu ra. Trong chuyện đó mới xuất hiện
nào là con mèo cọp báo hiệu đắm tàu, nào là con cá bay biết nói, nếu
không nghe lệnh của nó sẽ đi lạc đường, nào là những điềm báo, những hồn
ma, nàng tiên cá, những tên cướp biển, nói tóm lại là tất ca? những
chuyện hoang đường mà các thuỷ thủ đã kể cho nhau nghe trong quán rượu
quen thuộc hay trên tàu những khi gió lặng. Lông-gren còn kể về những
lần đắm tàu, về những người lạc trên đảo lạ đã trở thành man rợ đến nỗi
quên ca? tiếng nói, về những kho báu bí mật, về những người tù khổ sai
nổi loạn và nhiều chuyện khác. A-xôn nghe bố kể có lẽ còn chăm chú hơn
khi người ta nghe ông Cô-lông kể lần đầu về chuyện tìm ra châu Mỹ. “Bố
kể nữa đi”, - bé A-xôn nói với bố khi Lông-gren ngừng kể, vẻ mặt tư lự,
rồi em thiếp đi trên ngực bố trong giấc ngủ đầy những giấc mơ kỳ lạ.

A-xôn cũng rất mừng mỗi lần người buôn đồ chơi trên thị trấn về nhà
Lông-gren mua hàng. Để lấy lòng Lông-gren và để mua được rẻ hơn, người
lái buôn thường đem quà cho A-xôn, khi thì vài qua? táo, cái bánh ngọt,
khi thì nắm hạt dẻ. Thường thì Lông-gren chỉ nói đúng giá tiền thứ đồ
chơi mình làm ra vì anh không thích thú gì chuyện cò kè mua bán. Nhưng
lần nào người lái buôn cũng đòi bớt. “ồ, sao lại thế ông, - Lông-gren
nói, - tôi phải ngồi ca? tuần mới làm được chiếc thuyền buồm đấy. Chiếc
thuyền này dài năm véc- sốc. Ông cứ nhìn xem, chắc chắn lắm đấy, phần
chìm lại chất lượng tốt nữa. Có thể chở được mười lăm người trong mọi
thời tiết đấy.”. Kết cục là tiếng đứa con gái đang khẽ hát ru qua? táo
đã làm Lông-gren mềm lòng, anh hết muốn tranh cãi với người lái buôn, và
y cuối cùng đã mua được rẻ. Y cho những đồ chơi chắc chắn, tuyệt đẹp ấy
vào làn rồi ra về, tủm tỉm cười.

Mọi việc trong nhà, Lông-gren tự tay làm hết: bổ củi, xách nước, đốt lò,
nấu ăn, giặt giũ, là quần áo, dọn dẹp mọi thứ. Tuy vậy, Lông-gren vẫn
dành thời gian để kiếm tiền. Khi A-xôn lên tám tuổi, anh đã dạy con đọc,
viết. Thỉnh thoảng anh đưa con lên thị trấn. Sau đó đôi lần anh còn để
con đi đến đó một mình mỗi khi cần phải vay tạm ít tiền ngoài cửa hiệu,
hay đi đưa hàng. Điều này cũng ít xảy ra dù thị trấn Li-xơ chỉ cách làng
Ca-péc-na vẻn vẹn bốn dặm. Nhưng vì đường đi phải qua một khu rừng thì
thiếu gì cái làm trẻ con sợ sệt, chưa nói đến những nguy hiểm tuy cũng
khó xảy ra vì ở gần phố xá nhưng không phải là không cần tính đến. Cho
nên chỉ vào những buổi sáng thật đẹp trời, khi hai bên đường chan hoà
ánh nắng, hoa cỏ tốt tươi, bầu trời vắng lặng, A-xôn không còn tâm trí
đâu mà tưởng tượng đến những điều đáng sợ nữa, những lúc ấy Lông-gren
mới cho con gái đi một mình lên phố.

Có lần, trên đường đi lên phố, cô bé A-xôn ngồi lại nghỉ và lấy miếng
bánh rán để trong làn ra ăn lót dạ buổi sáng. Vừa ăn, A-xôn vừa ngắm
nghía các đồ chơi mang theo: cô bé thấy vài ba thứ đồ chơi lạ, những thứ
này cha cô đã làm về khuya. Trong số đó có một chiếc thuyền đua nhỏ sơn
màu trắng với những cánh buồm đỏ thắm làm bằng những mảnh lụa mà
Lông-gren chuyên dùng để trang hoàng cho các căn buồng trên tàu thuỷ lớn
- thứ đồ chơi dành cho trẻ con các gia đình lắm tiền. Chắc là sau khi
đẽo xong chiếc thuyền đua màu trắng, Lông-gren không biết lấy gì để làm
buồm và đã tình cờ ghép vào đấy những mảnh lụa màu đỏ thắm. A-xôn mừng
quá. Màu lụa thắm của những cánh buồm bé xíu đỏ rực trên tay A-xôn,
dường như cô bé đang nâng niu một ngọn lửa. Đường lên phố đi qua một
chiếc cầu nhỏ ghép bằng gỗ thô, dưới cầu là con suối len lỏi trong cánh
rừng. “Mình thử tha? xuống nước cho nó bơi một chút xem sao, - A-xôn
nghĩ, - nó có bị ướt thì mình lại lau khô được ngay thôi mà”. Cô bé đi
sang bên kia cầu rồi men theo dòng suối, rẽ vào cánh rừng, khẽ khàng đặt
chiếc thuyền mà cô yêu thích xuống mặt nước sát bên bờ. Cánh buồm in
hình thắm đỏ trong làn nước trong veo, và tia sáng mặt trời chiếu qua
lần vải lụa lung linh một màu hồng trên những hòn đá cuội trắng muốt
hiện ra dưới đáy. “Ông Thuyền trưởng ơi, ông từ đâu đến đấy?” - A-xôn
khẽ hỏi một người tưởng tượng bằng giọng nghiêm trang, rồi cô bé tự đóng
luôn vai Thuyền trưởng tra? lời: “Tôi đi từ... đi từ... Trung Hoa tới”.
“Thế ông chở cái gì thế?”-”Chở cái gì tôi cha? nói đâu”. “Chà, ông
bướng thật, ông Thuyền trưởng ạ! Thế thì tôi lại bỏ ông vào làn vậy”.
Ngay khi anh chàng Thuyền trưởng tưởng tượng kia vừa định ngoan ngoãn
tra? lời rằng mình chỉ nói đùa thôi và anh ta sắp sửa lấy ra cho xem một
con voi thì bất ngờ dòng nước chảy ven bờ từ từ làm quay mũi thuyền ra
phía giữa dòng, và con thuyền, y như thật, lao nhanh theo dòng suối.
Cảnh tượng trước mắt cô bé đột nhiên thay đổi: con suối đối với cô bé
bỗng trở thành một dòng sông rộng, chiếc thuyền nhỏ hiện ra như một
chiếc tàu lớn đã ra khơi xa, còn cô bé chút nữa thì ngã xuống nước giơ
tay ra lấy thuyền. “Chắc là Thuyền trưởng sợ lắm”, - cô bé thoáng nghĩ
vậy và chạy theo chiếc thuyền con đang lao đi vun vút, cô hy vọng đến
một chỗ nào đó, con truyền sẽ mắc lại bên bờ. Cô bé vừa chạy vừa xách
theo chiếc làn không nặng lắm nhưng cồng kềnh, miệng lẩm bẩm: “Trời ơi!
Sao mình lại không may thế nhỉ!... ”. Cô bé cố không rời mắt khỏi con
thuyền buồm xinh xắn đang lướt nhẹ trên dòng suối, chốc chốc lại vấp
ngã, đứng vội lên, rồi lại chạy theo.

Chưa bao giờ A-xôn vào sâu trong rừng đến thế. Cô bé bị thu hút tất ca? ý
muốn nôn nóng lấy lại được chiếc thuyền, không còn nhìn thấy gì khác
nữa. Dọc bờ suối cô bé chạy là vô số những vật chướng ngại, lẽ ra phải
để ý tới. Những thân cây đổ bám đầy rêu, những cái hố, những cây dương
xỉ, cây tầm xuân, cây nhài, cây dẻ mọc sum suê làm vướng chân A-xôn. Dần
dần cô bé thấm mệt, mỗi lúc lại phải dừng lại nhiều hơn để thở hay để
gạt mạng nhện bám lên mặt. Đến một quãng rộng, lau sậy mọc đầy hai bên
bờ thì A-xôn không còn nhìn thấy cánh buồm đỏ thắm nữa. Nhưng qua một
khúc quanh, lúc cô bé thoáng nhìn ra chung quanh và ca? khu rừng rậm rì
với từng cột ánh sáng đổ dài qua tán lá xen lẫn những khoảng tối sẫm âm u
làm cô vô cùng kinh ngạc. Một chút sợ hãi thoáng qua nhưng rồi nghĩ đến
chiếc thuyền, cô bé lại nặng nề thở, ráng hết sức chạy tiếp.

Cuộc chạy đuổi vô vọng và lo âu ấy kéo dài gần một tiếng đồng hồ, cho
đến khi cô ngạc nhiên và khoan khoái thấy phía trước mặt cây cối giãn
ra, để lộ một vùng biển màu xanh biếc cùng với những áng mây và bờ cát
vàng. Cô bé chạy đi tới đó, mệt rã rời gần như ngã khuỵu xuống. Nơi đây
là cửa dòng suối; nước toa? ra không rộng và nông, có thể nhìn thấy rõ
những hòn đá màu xanh nằm dưới đáy. Tới đây con suối mất hút trong làn
sóng biển tràn đến. Từ trên bờ cát thoai thoải nham nhở những rễ cây,
A-xôn nhìn thấy bên suối, trên một tảng đá to bằng phẳng, có một người
ngồi quay lưng lại phía cô, tay cầm chiếc thuyền nhỏ. Người đó ngắm
nghía kỹ càng chiếc thuyền với vẻ tò mò như một con voi vừa bắt được con
****. Cô bé hơi yên lòng một chút vì thấy chiếc thuyền vẫn còn nguyên
vẹn. Cô men theo bờ cát đi gần lại phía người lạ mặt cặp mắt chăm chú dò
xét chờ người kia ngẩng đầu lên. Nhưng người lạ mặt say sưa ngắm vật
bất ngờ gặp giữa rừng, đến mức cô bé có thể quan sát kỹ càng người ấy
suốt từ đầu đến chân và nhận ra rằng từ bé đến giờ trong đời cô chưa
từng gặp một ai giống như vậy ca?.

Nhưng trước mắt cô bé không phải ai xa lạ, mà chính là ông già Ê-gơn,
một người đi bộ khắp đó đây để sưu tầm những bài dân ca, những câu
chuyện cổ tích, thần thoại. Những món tóc xoăn dài bạc trắng lộ ra ngoài
chiếc mũ rơm, chiếc áo sơ mi màu xám bỏ vào trong quần màu xanh và đôi
ủng cao cổ đem lại cho ông dáng dấp một người đi săn, chiếc cổ áo màu
trắng, chiếc ca- vát, cái thắt lưng to bản có gắn miếng kim loại mạ bạc,
chiếc gậy chống và cái xắc có khoá mạ kền tất ca? những thứ ấy cho thấy
rõ ông già vốn là người thành thị. Vẻ mặt của ông nếu có thể dùng từ
“mặt” để chỉ cái mũi, đôi môi, cặp mắt lộ ra sau lớp râu sum suê và sau
bộ ria rậm mọc vểnh lên nom thật chất phác, nếu như không chú ý đến cặp
mắt xam xám màu cát, ánh lên như thép thuần chất với cái nhìn khoẻ
khoắn, táo bạo.

Bây giờ thì ông cho cháu xin lại nhé, cô bé rụt rè cất tiếng nói. Ông
chơi một lúc lâu rồi đấy. Làm thế nào mà ông vớt được nó lên?

Ông già Ê-gơn ngẩng đầu, đánh rơi chiếc thuyền xuống đất. Giọng nói nhỏ
nhẻ đầy xúc động của A-xôn vang đến tai ông quá bất ngờ. Ông già mỉm
cười ngắm nhìn cô bé một lúc, từ từ khẽ tựa chiếc cằm đầy râu vào lòng
bàn tay xương xương gân guốc của mình. Chiếc váy hoa bạc màu dài chưa
quá đầu gối, để lộ đôi chân nhỏ gầy sạm nắng. Mái tóc đen dày ẩn dưới
chiếc khăn ren loà xoà trên vai.Nét mặt cô bé trông thật thanh thoát và
trong trắng như đường bay của **** én mùa xuân. Đôi mắt màu đen thoáng
đượm một câu hỏi buồn buồn trông già dặn hơn khuôn mặt cô bé; gương mặt
trái xoan mềm mại, hơi rám nắng, trông thật khoẻ khoắn, đáng yêu. Cái
miệng nho nhỏ xinh xinh hé nở một nụ cười duyên dáng.

- Các ông Grim, Êđốp, An- đéc-xen cũng phải thấy đây là một chuyện gì
rất đặc biệt!- Ông già nói, lúc thì nhìn cô bé, lúc thì nhìn chiếc
thuyền nhỏ. - Này cô bé đáng yêu, hãy nghe ta nói nhé! Chiếc thuyền con
này là của cháu ư ?

- Thưa ông vâng ạ. Cháu chạy đuổi theo nó suốt dọc bờ suối mệt muốn chết ông ạ. Thế nó mắc lại ở đây hở ông ?

- Ở ngay bên chân ta đây. Đó là do đắm tàu, mà ta thì như là tên cướp
trên bờ, ta có thể trao cho cháu phần thưởng này. Sau khi các thuỷ thủ
đã rời khỏi thuyền thì một con sóng cao chừng ba véc- sốc đã hất nó lên
bờ cát, khoảng giữa gót chân trái ta và chiếc gậy này. - Ông già cầm
chiếc gậy đập đập xuống đất. - Thế cháu tên là gì, cô bé dễ thương?

- Cháu tên là A-xôn, - cô bé tra? lời, tay cầm chiếc thuyền nhỏ mà ông già vừa đưa trả, bỏ vào làn.

- Được rồi, - Ông già tiếp tục nói bằng một giọng khó hiểu. Mắt vẫn chăm
chăm nhìn cô bé, cái nhìn ẩn một nụ cười trìu mến. - Kể ra thì ta cũng
chẳng cần hỏi tên cháu làm gì. Hay lắm, tên cháu nghe là lạ, ngắn ngủi
và có nhạc điệu như tiếng mũi tên vút đi hay tiếng ngân vang của chiếc
vỏ ốc biển. Ta sẽ biết làm gì, nếu như cháu có một cái tên nghe thì êm
tai, nhưng lại quá nhàm và rất xa lạ đối với điều Bí ẩn Đẹp đẽ? Hơn mữa
ta cũng không muốn biết cháu là ai, bố mẹ cháu làm gì, cháu sống thế
nào. Biết đâu cái ấn tượng tuyệt vời ban đầu này lại chẳng bớt trọn vẹn
nếu ta hỏi thêm những điều ấy? Ta ngồi trên tảng đá này và đang so sánh
các cốt truyện cổ tích Nhật Bản và Phần Lan... thì bất ngờ dòng suối đem
tới đây con thuyền này và rồi cháu xuất hiện... như thế này đây. Cô bé
đáng yêu ạ, ta là một nhà thơ từ trong tâm hồn, mặc dù ta chưa bao giờ
làm thơ ca?. Làn của cháu đựng những gì vậy?

- Trong làn cháu để mấy chiếc thuyền, - A-xôn tra? lời, tay lúc lắc
chiếc làn, - với một chiếc tàu thuỷ và mấy cái nhà nhỏ có cắm cờ. Đấy là
nhà ở của quân lính đấy.

- Được lắm. Thế ra cháu được sai đem những thứ này đi bán. Dọc đường
cháu lại ham chơi. Cháu tha? chiếc thuyền này xuống nước cho nó bơi, thế
rồi nó trôi đi mất. Phải thế không?

- Ông trông thấy cháu làm thế à? - A-xôn ngập ngừng hỏi, giọng nghi ngờ,
cô bé cố nhớ lại xem mình đã kể chuyện này chưa. - Ai kể lại với ông
hay là ông tự đoán ra?

- Ta biết chuyện đó.

- Sao ông biết?

- Vì ta là một ông tiên.

A-xôn cảm thấy lúng túng. Cô bé cố hiểu những lời ông già nói, nhưng chỉ
càng thấy sợ sệt hơn. Bãi biển hoang vắng, khoảng không lặng ngắt, câu
chuyện kỳ lạ, vất va? vừa xảy ra với chiếc thuyền nhỏ, lời nói khó hiểu
của ông già có đôi mắt sáng, bộ râu và mái tóc đầy vẻ trang nghiêm - tất
ca? càng đem lại cho A-xôn cái cảm giác hư hư thực thực. Bây giờ chỉ
cần ông già nhăn mặt hay thét lên một tiếng là cô bé sẽ khóc oà, bỏ chạy
rồi ngã khuỵu xuống vì sợ hãi. Nhưng ông già Ê-gơn nhận thấy đôi mắt cô
bé mở to đầy vẻ hoảng hốt, đã vội vàng đổi giọng.

- Cháu không việc vì phải sợ ta cả, - Ông già khoan thai nói. - Ta còn muốn nói chuyện tâm tình với cháu nữa đấy.

Đến lúc đó ông mới nhận ra cái gì trên gương mặt cô bé đã gây cho ông ấn
tượng sâu sắc như vậy. “Chính là vẻ đợi chờ rất tự nhiên một cái gì đẹp
đẽ tốt lành, một số phận may mắn, - Ông già nghĩ vậy. - Chà, tiếc quá,
sao mình không phải là nhà văn? Đây thật là một đề tài tuyệt diệu!”.

- Này cô bé, - Ông già vừa nghĩ tiếp cho câu chuyện thêm hoàn chỉnh (cái
thiên hướng dựng những chuyện hoang đường - hậu qua? của công việc hằng
ngày - lúc này đã lấn át mối lo ngại gieo những hạt giống của một niềm
mơ ước lớn trên một mảnh đất còn hoang sơ), - cháu hãy lắng nghe ta nói
nhé. Ta đã đến làng mà cháu vừa đi ra, tức là làng Ca-péc-na. Ta rất
thích các chuyện cổ tích, các bài dân ca. Ta đã ngồi ở làng Ca-péc-na
suốt một ngày để cố nghe được những cái chưa ai nghe thấy. Nhưng dân
làng cháu không kể chuyện cổ tích, cũng không hát dân ca. Và nếu có kể
chuyện và hát, thì cháu biết không, toàn về những anh chàng nông dân và
những chú lính láu cá, ranh vặt, luôn huênh hoang về những trò bịp bợm,
toàn là những bài vè bốn câu ngắn ngủn với nhạc điệu rất xấu, nghe bẩn
thỉu như bàn chân chưa rửa, thô thiển như tiếng ọc ạch sôi bụng... Ồ ta
nói hơi lạc đề rồi. Ta kể lại từ đầu.

Nghĩ ngợi một lát, ông già nói tiếp:

- Ta không biết còn bao nhiêu năm nữa, chỉ biết rằng ở làng Ca-péc-na
thế nào cũng có một câu chuyện thần thoại mà người mai sau sẽ còn nhớ
mãi. Cháu rồi sẽ lớn lên, A-xôn ạ. Có lần vào buổi sớm mai, từ phía biển
khơi xa tít tắp sẽ hiện ra rực rỡ dưới ánh mặt trời một cánh buồm đỏ
thắm. Con tàu màu trắng với những cánh buồm thắm đỏ ấy sẽ rẽ sóng lướt
đi thẳng tới chỗ cháu. Con tàu kỳ diệu ấy sẽ nhẹ nhàng trôi tới, không
có tiếng súng nổ, không có tiếng hò la, trên bờ mọi người tụ tập đông
đúc trầm trồ kinh ngạc, và cháu cũng sẽ đứng ở đấy. Con tàu uy nghiêm
tiến gần lại bờ trong tiếng nhạc du dương, đằm thắm, rồi từ con tàu đó,
một chiếc thuyền nhỏ tách ra bơi nhanh vào bờ, trên thuyền trải thảm,
rực rỡ ánh vàng và màu hoa. “Các ông tới đây làm gì? Các ông tìm ai
vậy?”- mọi người trên bờ cất tiếng hỏi. Đến lúc đó cháu sẽ nhìn thấy một
vị hoàng tử tuấn tú, khoẻ mạnh, khôi ngô đứng trên thuyền, hai tay đưa
ra phía cháu. “Chào em. A-xôn! - chàng trai tuấn tú cất tiếng nói. - Từ
một nơi rất xa, rất xa, anh nhìn thấy em trong mơ và anh đã đến đây để
đem em đi mãi mãi về xứ sở của anh. Em sẽ sống với anh nơi ấy, trong một
thung lũng đầy hoa hồng. Em sẽ có tất ca? những gì em mơ ước: chúng ta
sẽ sống thuận hoà, vui vẻ với nhau và tâm hồn em sẽ không bao giờ biết
đến nỗi buồn và nước mắt”. Chàng trai ấy sẽ đặt cháu lên thuyền, đưa
cháu lên tàu và sẽ mãi mãi đi về xứa sở nơi mặt trời thức dậy và những
vì sao trên trời sa xuống để chào mừng cháu đến.

- Tất ca? chuyện ông kể là về cháu đấy ư? - cô bé khẽ khàng hỏi.

Cặp mắt đầu vẻ nghiêm trang của cô bé bỗng ánh lên một niềm vui tin cậy:
nếu ông ấy là một người có phép lạ độc ác thì chắc là ông đã không kể
như vậy. Cô bé bước lại gần hơn:

- Có lẽ chiếc tàu ấy đã... đến rồi ha? ông?

- Không nhanh thế đâu, - Ông già Ê-gơn tra? lời, - trước tiên là cháu
phải lớn lên đã chứ, rồi sau đó mới... biết nói thế nào nhỉ? Con tàu ấy
thế nào cũng đến, cháu ạ, nhất định như thế. Đến lúc ấy thì cháu sẽ làm
gì nhỉ?

- Cháu ấy à? - cô bé nhìn vào trong chiếc làn, nhưng có lẽ cô bé đã
không thấy một vật gì có thể làm vật đền bù xứng đáng. - Cháu sẽ yêu
hoàng tử, - cô bé tra? lời vội vàng và ngập ngừng nói tiếp, - nếu hoàng
tử không đánh nhau.

- Không, chàng không hay đánh nhau đâu, - Ông già có phép lạ nói, mắt
nhấp nháy đầy bí ẩn. - Chàng không thế đâu, ta có thể bảo đảm với cháu
điều này. Thôi, cháu đi đi nhé, và đừng quên những lời ta đã kể cho cháu
nghe giữa hai ngụm rượu thơm và những phút suy tưởng về bài ca của
những người tù khổ sai. Cháu đi đi nhé. Ta cầu mong cho mái tóc mây của
cháu được yên vui, thanh bình!

Lông-gren đang xới đất quanh cây khoai tây trong khu vườn nhỏ của mình.
Ngẩng đầu lên, anh thấy A-xôn đang chạy như bay về phía anh, gương mặt
rạng rỡ niềm vui, xao xuyến.

- Này, bố ạ... - cô bé nói, hơi thở còn dồn dập, hai tay níu lấy chiếc
tạp dề của Lông-gren. - Bố này, bố nghe con kể nhé... Ở ngoài bờ biển ấy
cách xa đây lắm, có một ông tiên đang ngồi đấy bố ạ...

Cô bé kể lại bắt đầu từ đoạn gặp ông già kỳ lạ và lời tiên đoán của ông.
Qúa xúc động với chuyện vừa gặp, A-xôn không thể kể lại một cách rành
rẽ, đâu ra đấy. Tiếp đó, cô ta? lại dáng vẻ bề ngoài của ông già rồi
cuối cùng mới kể tới đoạn cô chạy theo chiếc thuyền nhỏ trên dòng suối
như thế nào.

Lông-gren chăm chú nghe con kể, không ngắt lời con, không mỉm cười và
khi cô ngừng kể, anh tưởng tượng ra một ông già xa lạ một tay cầm chai
rượu thơm, một tay cầm chiếc thuyền nhỏ. Anh đã định quay đi, nhưng chợt
nhớ rằng trong những giây phút lớn lao của cuộc đời con trẻ, đôi khi
con người cần phải tỏ ra nghiêm trang và ngạc nhiên, anh bèn gật gù nói
với vẻ trang trọng: “Đúng rồi, đúng rồi, theo con kể thì đấy đúng là một
ông tiên. Bố muốn được gặp ông ấy lắm... Này, nhưng mà khi có việc phải
đi lên phố, con chớ rẽ ngang nữa nhé, trong rừng dễ lạc lắm con ạ”.

Bỏ cuốc ra, Lông-gren ngồi xuống bên bờ rào làm bằng cành khô, bế con
gái lên đùi. Dù đã rất mệt, cô bé vẫn cố kể thêm vài chi tiết nữa, nhưng
chỉ một lát sau cô đã cảm thấy buồn ngủ, phần vì nóng bức, vì xúc động,
phần vì mệt. Mắt cô díu lại, đầu nga? vào bờ vai chắc nịch của bố. Cô
đã tha? hồn vào cõi mộng ảo thì bỗng bị một nỗi hoài nghi làm tỉnh giấc,
cô liền ngồi thẳng dậy, mắt vẫn nhắm, nắm tay tựa vào áo gi-lê của bố
rồi cao giọng hỏi:

- Bố ơi, thế có thật là chiếc tàu kỳ lạ sẽ đến đón con không?

- Sẽ đến con ạ, - người thuỷ thủ bình thản tra? lời. - Nếu ông già ấy đã
nói với con như vậy, có nghĩa là mọi điều sẽ diễn ra đúng như thế.

“Khi nào lớn, con bé sẽ quên thôi, - Lông-gren thầm nghĩ, - còn bây
giờ... bây giờ thì không nên tước bỏ của con một thứ đồ chơi đẹp đẽ như
vậy. Sau này con sẽ phải nhìn thấy không phải là cánh buồm đỏ thắm mà là
những cánh buồm bẩn thỉu, độc địa, trông từ xa thì có vẻ đẹp đẽ, trắng
trẻo, đến gần thì rách nát, xấu xa. Một người qua đường nào đó đã đùa
với con tôi. Có sao đâu! Cũng là một chuyện đùa vui thôi! Không sao cả!
Nửa ngày trời vất va? trong rừng rồi con ạ. Còn về chuyện cánh buồm đỏ
thắm thì con hãy cứ nghĩ như bố: rồi con sẽ có những cánh buồm đỏ thắm”.

A-xôn đã ngủ. Lông-gren lấy tẩu thuốc ra hút. Gió đưa khói thuốc bay qua
bờ giậu về phía bụi cây mọc bên ngoài vườn. Cạnh bụi cây, ngồi quay
lưng lại phía bờ rào là một người ăn mày trẻ tuổi. Câu chuyện giữa hai
bố con đã làm anh ta thấy thú vị. Mùi thuốc lá thơm làm anh ta khấp khởi
mừng thầm.

- Ông chủ ơi, cho kẻ nghèo hèn này hút với, - anh ta nói với qua mấy
cành lá. - Thuốc lá của tôi mà so với thuốc của ông thì chỉ là cỏ thôi.

- Tôi sẵn sàng cho anh, Lông-gren nói nhỏ, - nhưng thuốc của tôi lại để ở
túi bên kia. Mà tôi thì, anh thấy đấy, lại không muốn làm mất giấc ngủ
của con bé.

- Ồ, có gì là khó khăn đâu! Nó tỉnh dậy rồi nó lại ngủ, còn người qua đường này thì được thuốc hút.

- Không được đâu, - Lông-gren nói, - dù sao anh cũng đã có thuốc hút, còn đứa nhỏ thì rất mệt. Nếu anh muốn, chốc nữa quay lại.

Người ăn mày khinh bẻ nhổ toẹt một bãi nước bọt, ngoắc chiếc bị lên gậy rồi châm chọc nói:

- à ra đó là công chúa kia đấy. Ông đã nhồi vào đầu nó đủ thứ tàu lạ! Thật là ngớ ngẩn, dở hơi, thế mà cũng gọi là ông chủ!

- Này, nghe đây, - Lông-gren nói nhỏ, - tao có thể đánh thức nó dậy đấy, nhưng chỉ cốt để sửa cho mày một trận thôi. Xéo ngay!

Nửa giờ sau, người ăn mày đã ngồi trong quán rượu bên cạnh khoảng chục
người đánh cá. Đằng sau họ là mấy người đàn bà cao lớn, lông mày rậm,
tay to và thô. Mấy người này khi thì kéo tay áo chồng, khi thì với tay
qua vai họ để lấy rượu uống. Người ăn mày bựa mình kể lại:

- Hắn không cho tôi thuốc lá. Hắn nói với con gái: “Khi con đến tuổi
trưởng thành, lúc đó sẽ có một con tàu đặc biệt, buồm đỏ... đến đón con.
Vì số phận của con là sẽ được lấy hoàng tử. Con hãy tin lời ông già
ấy”. Còn tôi thì nói với hắn: thức nó dậy đi, thức dậy đi mà lấy cho tôi
xin ít thuốc. Thế mà hắn lại đuổi đánh tôi.

Ai? Sao cơ? Chuyện gì vậy? - mấy người đàn bà tò mò nhao lên.

Đám đàn ông hơi ngoái đầu lại, nhếch mép cười khẩy giải thích:

- Hai bố con Lông-gren có lẽ điên dại rồi, anh này kể rằng có phù thuỷ
đến gặp họ, hiểu chưa? Hai bố con họ đang chờ một chàng hoàng tử phương
xa đến đây - các bà chớ bỏ lỡ cơ hội tốt! Chàng hoàng tử lại còn đến
trên chiếc tàu buồm đỏ thắm nữa chứ!

Ba ngày sau, lúc từ trên phố trở về, A-xôn lần đầu tiên nghe thấy:

- Ê, con ôn kia, A-xôn! Nhìn đây! Tàu buồm đỏ thắm đang đến kìa!

Cô bé giật mình quay lại, bất giác đưa tay che trán nhìn ra biển. Sau đó
em ngoái nhìn về phía người gọi: cách em chừng hai chục bước là một đám
trẻ đang nhăn mặt, thè lưỡi ra giễu em. A-xôn thở dài rồi bỏ chạy về
nhà.
Về Đầu Trang Go down
https://duonghoalac-hoabinh.forumvi.com
Admin
Admin
Admin
Admin

Tổng số bài gửi : 1754
Điểm : 6794
Ngày tham gia : 22/12/2010
Tuổi : 39
Đến từ : Hà Nội
Level: 39 Kinh nghiệm: 1754%
Sinh mệnh: 1754/100
Pháp lực: 39/100

NGƯỜI ĐIỀU HÀNH
Phù hiệu: Cánh buồm đỏ thắm POLLICE

Cánh buồm đỏ thắm Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Cánh buồm đỏ thắm   Cánh buồm đỏ thắm Icon_minitimeTue Mar 15, 2011 7:53 pm

Chương 2: Grây

Nếu Xêđa cho rằng thà đứng đầu ở nhà quê còn hơn đứng thứ
hai ở thành La Mã thì ác-tua Grây có thể không ganh tị gì với mong muốn
thông thái ấy của Xêđa. Dường như Grây đã sinh ra là một thuyền trưởng,
cậu muốn trở thành thuyền trưởng và đã trở thành thuyền trưởng.

Ngôi nhà đồ sộ, nơi Grây sinh ra, bên ngoài trông rất uy nghiêm, nhưng
bên trong thì hơi ảm đạm. Phía trước ngôi nhà là vườn hoa và một phần
khu vườn. Những loài tuy-líp đẹp nhất màu phơn phớt xanh, tím, hồng xen
những đốm đen, đã được trồng thành từng hàng trên thảm cỏ, trông xa như
những chuỗi hạt cườm rơi trên mặt đất. Những cây cổ thụ trong vườn như
đang mơ màng ngủ dưới ánh sáng lờ mờ bên dòng suối quanh co mọc đầy cỏ
lác. hàng rào bao quanh lâu đài này - đó qua? thật là một lâu đài - được
làm bằng những cột gang xoắn ốc nối với nhau bằng những tấm lưới sắt
hình hoa văn. Đỉnh mỗi cột đều xoè ra như hình một bông huệ lớn. Vào dịp
lễ, người ta đổ mỡ vào đấy và đốt lên, những ngọn lửa nhỏ ấy dăng thành
hàng, cháy sáng trong đêm tối.

Cha mẹ Grây là những kẻ kênh kiệu, bị cầm tù bởi địa vị giàu sang và
những luật lệ của cái xã hội đã sinh ra chính họ. Một phần hồn của họ
được dành cho những bức chân dung tổ tiên- những người thật ra cũng
chẳng đáng vẽ lại làm gì. Phần hồn còn lại được dành cho việc xây đắp kế
hoạch sao cho cậu bé Grây lớn lên sẽ nối gót được cha ông, kéo dài thêm
số chân dung dòng họ theo trên tường, sao cho chân dung của cậu cũng có
thể được treo lên đấy mà không làm suy giảm thanh danh của gia đình.
Khi đặt kế hoạch ấy, cha mẹ Grây đã mắc một sơ xuất nhỏ: ác-tua Grây
sinh ra là một đứa trẻ có tâm hồn nồng nhiệt, hoàn toàn không thích thú
gì với cái gọi là làm vẻ vang dòng dõi.

Tính nồng nhiệt, tính độc đáo khác người của đứa trẻ đã bộc lộ từ khi
cậu ta lên tám tuổi. Trong tính cách của cậu bé Grây dạo ấy đã lộ rõ
dáng dấp của kiểu người sáng tạo diệu kỳ dám nhận lấy vai trò nguy hiểm
nhất mà cũng gây xúc động nhất trong cuộc sống- vai trò người thấy trước
tương lai. Có lần cậu bé Grây đặt sát ghế vào tường rồi trèo lên để có
thể với tay tới bức tranh vẽ cảnh Chúa Ky-tô bị hành hình. Grây đã
“nhổ”những cái đinh ra khỏi cánh tay đầy máu của Chúa, tức là lấy màu
xanh bôi lên chỗ mấy cái đinh (màu xanh ấy cậu đã lấy được ở chỗ người
thợ sơn). Sau khi chữa lại như vậy, Grây thấy bức tranh dễ nhìn hơn. Say
sưa với việc làm độc đáo ấy, Grây bắt đầu chuyển sang tô màu lên ca?
chân của Chúa, thì vừa vặn bị bố trông thấy. Ông bố kéo tai, nhấc cậu bé
từ trên ghế xuống và hỏi:

- Sao con lại làm hỏng bức tranh thế?

- Con không làm hỏng.

- Đây là tác phẩm của một hoa. sĩ nổi tiếng.

- Cái đó con không quan tâm bố ạ, Grây tra? lời. Con không thể để yên
khi trông thấy cánh tay người bị đóng đinh và máu chảy. Con không thích
thế.

Ông Li- Ô-nen Grây cố giấu nụ cười dưới bộ ria mép và không trừng phạt
con trai vì nhận ra tính cách của mình trước đây qua câu tra? lời của
con.

Grây miệt mài tìm hiểu mọi ngóc ngách trong lâu đài, phát hiện ra những
điều thật đáng kinh ngạc. Chẳng hạn trên gác thượng, cậu tìm thấy những
bộ áo giáp sắt đã gỉ, những cuốn sách bìa bằng sắt, bằng da, quần áo bị
mủn và ca? một đàn bồ câu. Dưới căn nhà hầm, nơi chứa rượu, cậu đã biết
được nhiều điều thú vị về các loại rượu nho như la-phít ma- đe -ra, khê-
rét. Ở đây, trong ánh sáng nhờ nhờ toa? ra từ những khung cửa sổ, chất
đầy những thùng to thùng nhỏ đựng rượu. Chiếc thùng lớn nhất, to bè bè
chiếm ca? chiều dài bức tường phía trước của căn nhà hầm, mặt gỗ sồi
trăm tuổi được dùng làm thùng cứ nhẵn thín như là được đánh bóng. Bên
cạnh thùng đựng rượu là những chiếc sọt để đầy những chai thuỷ tinh thấp
màu xanh thẫm và xanh lá cây. Trên nền nhà và trên gờ đá có những cây
nấm màu xám, thân gầy guộc khẳng khiu; chỗ nào cũng ẩm ướt, mốc meo, rêu
bám và một thứ mùi chua chua đến ngạt thở. Ở phía cuối căn hầm có một
mạng nhện lớn cứ chiều chiều lại vàng óng lên vì những tia sáng mặt trời
chênh chếch chiếu vào. Trong một góc căn nhà hầm có chôn hai thùng rượu
a-li-can-te thượng hảo hạng, làm từ thời Crôm- Oen. Và người trông coi
kho rượu mỗi lần chỉ cho Grây xem góc nhà trống trải ấy đều không quên
kể lại cho cậu bé nghe câu chuyện về một ngôi mộ nổi tiếng, chôn một
người tuy đã chết mà còn tinh nhanh hơn ca? đàn chó săn. Khi bắt đầu kể,
người trông coi kho không quên thử xem vòi rượu ở thùng lớn nhất có còn
tốt không. Sau đó ông ta rời khỏi chỗ để chiếc thùng ấy chắc là với một
tâm trạng thật nhẹ nhõm khoan khoái, vì những giọt nước mắt sung sướng
bất giác hiện ra trong khoé mắt vui vẻ của ông ta.

- Chuyện là thế này, cậu Grây ạ, - Ông Pôn- đi-sốc ngồi xuống chiếc
thùng rỗng, hít thuốc lá và bắt đầu câu chuyện, - cậu có trông thấy chỗ
kia không? Dưới chỗ ấy có chôn một thứ rượu mà có lẽ không kẻ nghiện
rượu trên đời này sẵn sàng chịu để cắt lưỡi nếu được uống một chén nhỏ
thứ rượu đó. Mỗi thùng chứa một trăm lít thứ rượu làm linh hồn ngây
ngất, làm cơ thể chết lặng. Rượu đó màu sẫm hơn màu anh đào, dốc ngược
chai cũng không chảy ra, nó dẻo quánh lại như thứ kem sữa tốt nhất. Rượu
này được đựng trong thùng đóng bằng thứ gỗ mun cứng như sắt. Đai thùng
làm bằng đồng đỏ. Trên đai còn khắc dòng chữ bằng tiếng la-tinh: “Ông
Grây sẽ uống tôi khi ông ở Thiên đường”. Người ta tán rộng nội dung dòng
chữ đó đến nỗi ông cố của cậu, nhà quý tộc Xi-mê- Ôn Grây, đã xây một
ngôi nhà nghỉ đặt tên là “Thiên đường”. Ông già nghĩ rằng với cách đặt
tên không khéo như vậy cho ngôi nhà, ông có thể kết hợp được câu nói bí
ẩn kia với thực tế. Nhưng cậu có biết không? Ông già đã bị chết ngay khi
đang phá đai thùng rượu vì bị vỡ tim - Ông đã quá xúc động. Từ độ ấy,
không ai dám động đến thùng rượu đó nữa. Mọi người đều tin rằng thứ rượu
quý đó đem lại điều bất hạnh. Thực ra thì đến con sư tử đầu người ở Ai
Cập ngày xưa cũng không đặt ra những câu thách đố khó xử đến như vậy. ừ
mà có lần, con sư tử ấy đã hỏi một nhà thông thái: “Liệu ta có ăn thịt
mày như đã ăn thịt mọi kẻ khác không? Mày tra? lời đúng thì sẽ được
sống”, nhưng điều này, nếu suy nghĩ kỹ càng thì...

- à mà hình như có tiếng rượu ở vòi rỏ xuống, - Pôn- đi-sốc tự ngắt lời
mình, bước nhanh về phía góc hầm, vặn chặt vòi, rồi quay lại với vẻ mặt
hớn hở. - Đúng, nếu suy xét kỹ và không vội vàng thì nhà thông thái có
thể nói với con quái vật mình sư tử đầu người rằng: “Thôi ta đi uống
rượu, ông bạn ạ, rồi ông sẽ quên đi những điều ngu xuẩn ấy”. “Ông Grây
sẽ uống tôi khi ông ở Thiên đường!”Thế là thế nào? Sẽ uống sau khi chết
à? Thật là lạ lùng. Vậy thì ông ấy là thánh, ông ấy không uống rượu
vang, cũng không uống vốt-ca thường. Cứ cho “Thiên đường”có nghĩa là
hạnh phúc đi. Nhưng nếu vấn đề đặt ra như vậy thì hạnh phúc rơi mất nửa
giá trị khi người được hưởng hạnh phúc lại còn phải tự hỏi mình: đấy có
phải là Thiên đường không? Đấy, vấn đề là ở chỗ đó. Để có thể lấy rượu
từ cái thùng ấy mà uống và cười một cách thoải mái, thì cậu bé ạ, cần
phải một chân đứng trên mặt đất, một chân đứng lên trời. Còn có gia?
thuyết thứ ba nữa là: đến một lúc nào đó, ông Grây uống rượu say bí tỉ
và dốc cạn hết ca? thùng. Nhưng mà thôi, cậu bé ạ, đó không phải là sự
thực hiện lời tiên tri mà là một cảnh bê bối ở quán rượu.

Xem lại lần nữa chiếc vòi rượu ở thùng lớn có thật hết chảy chưa Pôn-
đi-sốc kết thúc câu chuyện của mình bằng giọng rầu rĩ, đầy vẻ quan
trọng:

- Những thùng rượu này ông tổ của cậu là Giôn Grây mang từ Li-xbon về,
trên con tàu “Bi-gơn”, vào năm 1793. Tiền mua rượu là hai ngàn pi-át
vàng. Dòng chữ trên đai thùng là do bác thợ Vê-nhi-a-min Ê-li-an ở Pôn-
đi-sê-ri khắc. Mấy thùng rượu này được chôn sâu dưới đất khoảng sáu fut
rồi phủ đầy tro cây nho. Nhưng thứ rượu này chưa ai được uống, chưa ai
nếm thử và sẽ chẳng ai được uống nữa.

- Cháu sẽ uống, bác ạ, - cậu bé Grây vừa nói qua? quyết vừa đập mạnh chân xuống đất.

- Ồ, cháu thật là một cậu bé dũng cảm! - Ông già Pôn- đi-sốc khen ngợi. - Cháu sẽ uống thứ rượu đó trên Thiên đường chứ?

- Đúng thế bác ạ. Thiên đường đây này!... Nó đang trên tay cháu đây này,
bác thấy không? - Grây khẽ cất tiếng cười, xoè lòng bàn tay nhỏ của
mình ra. Bàn tay mềm mại hứng lấy ánh mặt trời và ngay lúc ấy cậu nắm
tay lại. - Đấy, Thiên đường ở đây bác này!... Lúc thì trông thấy, lúc
lại không...

Vừa nói thế, cậu bé vừa xoè tay rồi lại nắm tay lại. Thú vị với trò đùa,
cuối cùng cậu bé đã bỏ chạy ra khỏi căn hầm, vượt lên trước ông già
Pôn- đi-sốc trên những bậc thang tối dẫn lên hành lang tầng một. Gia
đình cấm ngặt Grây xuống nhà bếp. Nhưng sau khi phát hiện ra nơi đây hấp
dẫn với những ánh lửa lò, hơi nước, bồ hóng, tiếng xào nấu, tiếng dao
thớt và những mùi thơm nức thì cậu bé rất hay lần xuống chỗ ấy. Những
người đầu bếp lặng lẽ, nghiêm nghị đi lại trông như những tư tế, những
chiếc mũ tròn cao màu trắng nổi lên trên nên tường màu đen đem lại cho
công việc của họ một vẻ trang nghiêm. Cũng ở đây, cậu bé Grây trông thấy
những chị rửa bát béo núc ních, vui tính đang rửa bát đĩa bên những
chậu nước đầy, tiếng đồ sứ, đồ bạc chạm vào nhau lanh canh. Những chú bé
còng lưng vác những giỏ lớn đựng đầy tôm, cá, hoa qua?. Trên một chiếc
bàn bài xếp đầy gà, vịt, **** rừng; cũng ở đấy còn thấy nguyên ca? con
lợn đã cạo lông, đuôi ngắn ngủn, mắt đã nhắm lại, còn thấy ca? những cây
cải bắp, đậu, nho khô, đào.

ở nhà bếp, Grây có phần e dè: cậu cảm thấy một sức mạnh khó hiểu nào đó
đang điều khiển cuộc sống trong lâu đài. Những tiếng gọi nghe như những
mệnh lệnh, những câu phù chú; mọi động tác của những người làm bếp đều
nhanh nhẹn, dứt khoát, chính xác, tựa như một niềm phấn hứng. Grây còn
thấp, chưa nhìn vào được chiếc nồi lớn nhất đang sôi sùng sục, nhưng cậu
bé cảm thấy nó đặc biệt đáng trọng vọng. Cậu chăm chú nhìn hai người
hầu gái đang vần chiếc nồi ấy, bọt trào ra trên bếp, hơi bốc lên toa?
kín ca? căn bếp. Có lần nước sôi trào ra ngoài làm bỏng tay một cô. Da
tay lập tức tấy đỏ, móng tay cũng tấy đỏ vì ứ máu, còn Bét-xi (tên cô
gái ấy) thì vừa khóc vừa lấy mỡ bôi lên chỗ đau. Nước mắt trào ra trên
gương mặt tròn tròn đầy vẻ sợ hãi của cô.

Grây đứng lặng. Khi mấy phụ nữ khác đang luống cuống bên cạnh Bét-xi thì
cậu bé rất xúc động trước nỗi đau đớn kia, như là chính của mình, mặc
dầu cậu không thể cảm thấy cụ thể được nó.

- Chị đau lắm phải không? - Grây hỏi.

- Cậu cứ thử thì cậu khắc biết, - Bét-xi tra? lời, lấy vạt tạp dề che chỗ tay bị bỏng.

Cậu bé cau mày, trèo lên một chiếc ghế đẩu, lấy chiếc muôi dài múc nước
đang sôi (hôm đó là thứ nước xúp thịt cừu) rồi đổ lên tay. Cảm giác quá
đau đớn bất chợt làm cậu sững lại. Mặt tái mét, Grây tiến lại gần
Bét-xi, giấu bàn tay bị bỏng trong túi quần:

- Em cảm thấy chị rất đau, chị Bét-xi ạ, - Grây nói, không nhắc gì đến
“thí nghiệm” vừa rồi của mình. - Chị đến bác sĩ với em đi. Đến ngay
thôi!

Cậu níu áo Bét-xi kéo đi, trong khi mấy người hâm mộ những kiểu chữa
bỏng theo lối gia truyền thì mách cho Bet-xi đủ thứ thuốc. Nhưng cô gái
vì quá đau đã đi theo Grây. Bác sĩ cho thuốc giảm đau, rồi băng chỗ bỏng
lại. Và chỉ sau khi Bét-xi đi rồi, cậu bé mới để cho bác sĩ xem xét vết
bỏng của mình.

Câu chuyện nhỏ ấy đã làm cậu bé Grây mười tuổi và chị Bét-xi hai mươi
tuổi trở nên thân thiết. Cô gái thường giúi đầy túi cậu bé nào bánh, nào
táo, còn cậu thì kể lại cho cô nghe những chuyện hay đọc được trong
sách của mình. Có lần Grây biết được rằng Bét-xi không thể nhận lời lấy
anh coi ngựa tên là Gim chỉ vì họ không có tiền sắm sửa những vật dụng
tối thiểu cho cuộc sống gia đình. Và thế là Grây đã đập vỡ chiếc bình sứ
đựng tiền để dành của cậu được tất ca? gần một trăm phun. Grây dậy thật
sớm, chờ khi Bét-xi đi xuống bếp, cậu đã lẻn vào buồng cô gái, nhét túi
tiền vào trong rương cô, kèm theo mảnh giấy đề dòng chữ: “Số tiền này
là của chị đấy, Bét-xi ạ. Thủ lĩnh đảng cướp Rô-bin Hút”. Câu chuyện này
khiến mọi người làm công dưới bếp xôn xao bàn tán đến mức Grây đành
phải để lộ ra rằng chính mình là người đã bày ra trò ấy. Cậu không lấy
lại số tiền và không muốn nói thêm về chuyện đó nữa.

Mẹ Grây là người thuộc loại người được cuộc sống sắp đặt theo những
khuôn định sẵn. Bà ta sống mơ màng trong một cuộc đời quá ư đầy đủ, mọi ý
muốn của một tâm hồn bình thường đều sẵn sàng được thoa? mãn. Bởi vậy
bà ta chẳng còn việc gì để làm, ngoài việc trò chuyện với mấy người thợ
may, bác sĩ, quản gia. Lòng say mê, gắn bó gần như sùng kính đối với đứa
con trai khác thường, có thể nói đã choán hết mọi suy nghĩ của bà, một
con người đã bị hoàn cảnh và số phận làm cho chai mòn. Mọi suy nghĩ của
bà không tồn tại một cách sống động mà mơ hồ lẩn quất đâu đó làm cho ý
chí của bà trở nên uể oải, rã rời. Người đàn bà quyền quý ấy giống như
một con công mái ấp trứng thiên nga. Bà ta đau lòng nhận thấy tính cách
tốt đẹp khác thường của đứa con trai. Một tình cảm vừa yêu thương vừa
buồn bã nặng nề choán lấy lòng bà mỗi khi bà ôm đứa con trai áp vào ngực
mình, nơi trái tim đang nói những điều khác với ngôn ngữ thường, chỉ
biểu hiện những hình thức ước lệ của các quan hệ và suy tư. Thế là tác
động của đám mây do các tia sáng mặt trời tạo nên một cách khéo léo đã
thấm và khung cảnh cân đối của toà nhà và làm mất đi cái vẻ trang nghiêm
tẻ nhạt của nó, mắt nhìn nhưng không nhận ra nơi ở, sắc thái bí ẩn cảu
ánh sáng giữa sự nghèo nàn tạo ra một sự hài hoà sáng loá.

Người đàn bà quyền quý ấy có gương mặt và dáng người lạnh lùng như băng
giá trước cuộc sống náo nức bên ngoài, có vẻ đẹp dễ làm người ta lánh xa
hơn là thu hút - vì trong vẻ đẹp ấy dường như không có sự hấp dẫn nữ
tính mà chỉ có sự kênh kiệu của lý trí. Bà Li-li-an Grây ấy khi còn lại
một mình bên con đã hiện ra là một người mẹ bình thường, biết nói với
giọng nhỏ nhẹ đầy yêu thương những điều vô nghĩa không thể ghi lại được -
sức mạnh những lời ấy là ở trong tình cảm, trong giọng nói chứ không
phải ở chữ nghĩa. Bà ta hoàn toàn không thể làm trái ý con một điều gì.
Bà tha thứ cho con tất cả, không trừng phạt mắng mỏ gì khi con xuống bếp
chơi, chán học, không vâng lời hay bày ra nhiều trò quỷ quái.

Nếu cậu không muốn cắt tỉa cây cối trong vườn thì sẽ không ai chạm đến
cây cối. Nếu cậu xin ta tội hay xin ban thưởng cho ai thì có nghĩa là sự
việc sẽ xảy ra đúng như thế. Cậu ta có thể cưỡi bất cứ con ngựa nào,
dắt bất cứ con chó nào vào lâu đài, có thể vùi đầu trong thư viện, đi
chân đất và ăn bất cứ thứ gì cậu muốn.

Bố của Grây dạo đầu cũng ngăn cản con làm như thế, nhưng rồi sau lại
thôi, không phải vì nguyên tắc mà vì để chiều theo ý vợ. Ông ta chỉ thi
hành một biện pháp là không cho con cái của những người làm công được ở
trong khu vực lâu đài vì sợ rằng gần những đứa trẻ thuộc lớp dưới đó,
tính tình khác thường của Grây sẽ trở thành sâu sắc, khó sửa. Nói chung,
ông ta hầu như dành tất ca? thì giờ để chuyên tâm vào việc phân xử các
vụ tranh chấp trong dòng họ bắt đầu từ thời có các nhà máy giấy đến khi
các vị ưa tranh giành, cãi vã nhau bị chết. Ngoài ra, công việc của quốc
gia, của các trại ấp, việc đọc cho người khác ghi chép hồi ký, đi săn,
xem báo, trao đổi thư từ đã làm ông hơi tách biệt với gia đình. Ông ta
cũng rất ít khi gặp con trai cho nên đôi khi ông quên ca? tuổi con.

Vậy là Grây đã sống trong thế giới của mình. Cậu chơi một mình - thường
là trong sân phía sau lâu đài, nơi xưa kia có một tầm quan trọng về mặt
quân sự. Đó là một khu đất rộng, còn lại vết tích những thành hào sâu,
những tảng đá phủ kín rêu xanh, đầy những bụi cây rậm rạp và các loại
hoa dại màu sắc sặc sữo. Grây chơi ở đó hàng giờ liền, chăm chú quan sát
các hang chuột, “chiến đấu” với các bụi cây, quất những con **** và xây
những thành luỹ bằng gạch vụn rồi lại phá huỷ bằng gậy hay bằng đá ném.

Khi cậu mười hai tuổi, mọi ý thích của cậu, mọi nét tản mạn của tinh
thần và mọi khía cạnh của tình cảm bí ẩn đã kết lại thành một nguyện
vọng mạnh mẽ duy nhất, không thể nào ngăn lại được. Trước đó, dường như
cậu chỉ mới tìm thấy từng phần riêng biệt của mảnh vườn của riêng mình
đó là ánh sáng, bóng cây, hoa lá, thân cây to đứng mơ màng và um tùm
trong nhiều khu vườn của mình với vẻ hài hoà tuyệt diệu.

Chuyện này đã xảy ra trong thư viện. Tấm cửa cao lắp kính mờ ở phía trên
lúc nào cũng đóng im ỉm, nhưng then cửa lại cài hờ hờ, chỉ cần đẩy tay
vào là nó kênh lên và bật ra. Khi lòng say mê nghiên cứu của Grây đã bắt
cậu lọt vào thư viện thì cậu đã bị sửng sốt bởi một thứ ánh sáng đầy
bụi mà toàn bộ sức mạnh và đặc điểm của nó là những đường hoa văn nhiều
màu sắc phía trên kính cửa sổ. Ở đây im lặng ngột ngạt như nước ao tù.
Hàng dãy tủ sách sẫm màu kê cách lối đi, sách vứt thành đống. Kia một
quyển an bom đang mở với những trang trong bị bong ra. Kia nữa các cuốn
giấy buộc dây vàng, từng đống sách màu tối, các tập bản thảo dày cộp,
một chồng sách bản vẽ, biểu đồ, hàng loạt sách mới xuất bản, bản đồ. Bìa
thì nhiều loại khác nhau: thô kệch, mịn màng, màu đen, xanh lam, xám,
dày, mỏng, ngẵn nhụi, ram ráp. Các tủ xếp đầy sách, trông chúng cứ như
những bức tường khép kín cuộc đời trong chiều dày của mình. Cửa kính các
tủ phản chiếu các tủ khác lấp loáng những chấm sáng nhờ nhờ.

Một qua? địa cầu to lớn đóng khung trong đường xích đạo và kinh tuyến bằng đồng giao nhau đặt trên bàn tròn.

Quay ra cửa ra vào, Grây thông thấy một bức tranh lớn ở phía trên cửa.
Nội dung bức tranh càng làm cho không khí trong thư viện thêm tù túng
ngột ngạt. Bức tranh vẽ một con tàu đang nga? nghiêng trên đỉnh ngọn
sóng. Bọt trắng tung cao bên mạn tầu. Con tàu như đang bay lên, lao về
phía người xem Mũi tàu dăng cao che lấp ca? phía dưới cột buồm. Ngọn
sóng bị thân tàu xé đôi tung ra hai bên như đôi cánh buồm căng phồng
thấp thoáng hiện ra phía sau mũi tàu như cố chứa hết sức mạnh điên cuồng
của cơn dông tố để đẩy con tàu vượt qua con sóng lớn đi nhanh về phía
xa. Những đám mây bị xé nhỏ sà xuống mặt biển. ánh sáng mờ mờ đang đấu
tranh một cách tuyệt vọng với bóng đêm đang ập tới. Nhưng đáng chú ý
nhất trong bức tranh ấy là hình ảnh một người đứng ở mũi tàu quay lưng
lại người xem. Hình dáng người ấy như đã nói lên tất ca? tình trạng,
thậm chí tính chất của thời điểm đó. Người đó đứng chân giạng ra, tay
vung cao. Với tư thế đó, không thể biết anh ta đang làm gì, nhưng nó
buộc chúng ta phải hình dung rằng người ấy đang căng thẳng chú ý vào một
cái gì đó ở phía trên boong tàu, noi chúng ta không nhìn thấy rõ. Vạt
áo của anh ta bay trước gió, chiếc kiếm đeo bên sườn hất lên cao: trông
cách ăn mặc cũng có thể đoán anh ta là thuyền trưởng. Thân hình anh ta
nhún nhảy theo sóng ; đầu không mũ, anh ta được thể hiện vào đúng cái
giờ phút hiểm nghèo. Anh ta hét lên nhưng để làm gì? Liệu anh ta có
trông thấy ai đang ngã không? Liẹu anh ta có ra lệnh quay sang hướng
khác, hay tiếng anh ta gọi thuỷ thủ trưởng bị tiếng gió át đi? Nhiều ý
nghĩ khác nhau cứ lởn vởn ám ảnh tâm trí Grây khi cậu ngắm bức tranh
này. Chợt cậu cảm thấy bên trái cậu có người nào lạ mặt tàng hình vừa
bước tới đứng ngay cạnh. Chỉ cần quay đầu lại là cảm giác kỳ lạ đó sẽ
biến mất. Grây biết rõ điều đó. Nhưng cậu không ngừng tưởng tượng mà
chăm chú lắng nghe. Một giọng nói không thành tiếng thốt lên vài câu rời
rạc khó hiểu như tiếng Ma-lai-xi-a. Có tiếng ầm ầm tựa như cái gì đó
sụt lở kéo dài. Tiếng vọng và tiếng gió âm u lan khắp thư viện. Tất ca?
những âm thanh ấy, Grây đã nghe từ trong người mình, Cậu chợt nhìn
quanh; cảnh im ắng trong căn phòng xua tan ngay những tiếng động trong
tưởng tượng vừa rồi, cậu không còn can dự vào cơn dông tố trên biển nữa.

Grây nhiều lần đến thư viện ngắm bức tranh đó. Bức tranh ấy đối với cậu
đã trở thành lời nói cần thiết trong cuộc đối thoại giữa tâm hồn và cuộc
sống, thiếu lời nói đó thì cậu không thể nào tự hiểu được mình nữa.
Trong tâm trí cậu bé, biển bao la dần dần được hình thành. Cậu luôn luôn
tưởng tượng ra nó, lục lọi trong thư viện để tìm đọc ngấu nghiến những
cuốn sách mà sau cánh cửa vàng của chúng mở ra vầng hào quang xanh sẫm
của đại dương. Ở đó có những con tàu đang chuyển động, tung bọt sau bánh
lái. Có những con tàu bị mất buồm và cột buồm, bị sóng nuốt chửng và
dìm xuống đáy sâu; ở đó thấp thoáng những đàn cá mắt lấp lánh như lân
tinh. Có những con tàu bị sóng đánh vào đá ngầm, lắc lư trên sóng đã dịu
đi. Một con tàu không người, bị đứt dây chão đang kéo dài cảnh hấp hối
cho đến lúc một cơn bão khác phá nó ra thành từng mảnh. Loại tàu thứ ba
lấy hàng an toàn ở một bến cảng rồi bốc dỡ ở một cảng khác; đám thuỷ thủ
ngồi bên bàn rượu vui vẻ ca ngợi chuyến đi biển và say sưa uống rượu.
Lại còn có những con tàu cướp biển, treo cờ đen với súng ống và âm nhạc.
Có tàu nghiên cứu khoa học, quan sát các núi lửa, nghiên cứu động vật
và cỏ cây. Có những con tàu với ý đồ đen tối và những cuộc nổi loạn; có
con tàu phát kiến và phiêu lưu.

Trong thế giới ấy, vai trò người thuyền trưởng, lẽ tự nhiên, nổi bật
lên. Thuyền trưởng là linh hồn, là lý trí, là số phận của ca? con tàu.
Tính cách của người này ảnh hưởng đến công việc và sự nghỉ ngơi của thuỷ
thủ. Đích thân thuyền trưởng chọn thuỷ thủ cho con tàu của mình, và đội
ngũ ấy nói chung phải đáp ứng được những ý thích của riêng anh ta. Anh
ta biết rõ thói quen và hoàn cảnh gia đình của từng người. Trước con mắt
mọi người dưới quyền, anh ta có vốn kiến thức sâu rộng, nhờ đó mà có
thể điều khiển con tàu, chẳng hạn đi thẳng từ Li-xbon đến Thượng hải
trên mặt biển mênh mông. Anh ta chống lại bão táp bằng hàng loạt cố gắng
phức tạp, xua tan nỗi sợ hãi bằng cách phát ra những mệnh lệnh ngắn
gọn. Tàu dừng lại hay tiếp tục cuộc hành trình là tùy thuộc vào ý muốn
của anh ta, anh ta điều khiển việc ra khơi và chất hàng, tu sửa và nghỉ
ngơi, thật khó mà hình dung được hết quyền lực to lớn và sáng suốt của
anh ta trong công việc hoạt động không ngừng. Quyền lực ấy hạn chế hay
đầy đủ đều tương đương với quyền lực của oóc-phê.

Trí tưởng tượng sán lạn của Grây đã hình dung như vậy về vị trí và hoạt
động thật sự của người thuyền trưởng. Không một nghề nghiệp nào trên đời
này lại có thể hoà hợp tất ca? những gì hấp dẫn nhất trong cuộc sống
vào một thể thống nhất như nghề làm thuyền trưởng, mà vẫn không loại bỏ
những gì riêng tư trong hạnh phúc của từng người. Sự nguy hiểm, táo bạo,
quyền lực của thiên nhiên, ánh sáng của miền đất nước xa xôi, sự bí ẩn
đầy kỳ diệu, mối tình thoảng qua, gặp gỡ và chia ly, sự nồng nàn hấp dẫn
của các cuộc gặp gỡ, các nhân vật, các sự kiện, sự phong phú vô hạn của
cuộc sống khi mà cao tít trên bầu trời là chòm sao Thập tự nam, chòm
sao Gấu, và tất ca? các lục địa đều nằm trong tầm mắt tinh tường mặc dù
buồng tàu của anh đầy những thứ cua? Tổ quốc vẫn chưa xa rời anh như
sách vở, tranh ảnh, thư từ và những đoá hoa khô quấn trong mớ tóc xoăn
mềm mại để trong chiếc bùa bằng da mịn đeo trên bộ ngực rắn chắc.

Mùa thu, khi ác-tua Grây vừa mười lăm tuổi, cậu đã bro trốn khỏi nhà để
bước qua cánh cửa vàng của biển. ít lâu sau, từ bến cảng Đu-ben, con tàu
A-xem đã nhổ neo đi Mac-xây, chở theo một cậu thiếu niên có đôi bàn tay
nhỏ bé trắng trẻo, có dáng vẻ bề ngoài của một thiếu nữ gia? trai. Cậu
thiếu niên đó là Grây. Cậu có chiếc túi du lịch rất đẹp, đôi ủng da bóng
láng mỏng như da găng tay, quần áo may bằng thứ vải sang trọng, đắt
tiền.

Trong khoảng một năm, khi tàu A-xem đi Pháp, Mỹ, Tây Ban Nha thì Grây đã
tiêu một phần tiền của mình cho quá khứ là đánh chén, phần còn lại cho
hiện tại và tương lai - là thua bạc. Anh muốn trở thành một thuỷ thủ
“lão luyện”. Anh uống rượu hừng hực, tắm thì đứng từ trên cao khoảng hai
xa-giên thản nhiên nhảy cắm đầu xuống nước. Dần dần anh mất hết, trừ
cái chính là tâm hồn thích bay bổng lạ kỳ, anh không còn yếu ớt mà trở
nên cứng cáp, bắp thịt rắn chắc, nước da mai mái đã sạm nắng, cử chỉ mềm
mại được thay bằng động tác chính xác của đôi tay lao động. Còn đôi mắt
suy tư của anh ánh lên như đang nhìn vào lửa. Ca? cách nói của anh từ
chỗ nhỏ nhẹ, nhút nhát đã biến thành rắn rỏi, dứt khoát như **** hải âu
lao xuống làn nước bắt chú cá đang nghiêng mình lấp lánh.

Thuyền trưởng con tàu A-xem là một người tốt bụng, nhưng lại là một thuỷ
thủ khe khắt. Ông đã nhận chú bé Grây lên con tàu của mình với một thâm
ý nào đó. Ông coi nguyện vọng thiết tha làm thuỷ thủ của Grây chỉ là
một ý thích ngông cuồng trong chốc lát, và nghĩ rằng chỉ một hai tháng
sau là Grây sẽ phải cúi mặt xuống mà nói với ông; “Thưa thuyền trưởng
Gốp, cháu đã bị xây xát hết ca? khuỷu tay khi leo dây thuyền, cháu bị
đau hết ca? mạng sườn và lưng, ngón tay không duỗi được nữa, đầu nhức,
chân run lẩy bẩy. Những dây chão ướt nặng hàng hai pút này làm trĩu ca?
tay, những mớ dây rợ, đoạn nối cột buồm... đã hành hạ cơ thể mềm mại của
cháu. Cho cháu về với mẹ cháu”. Nghe lời cầu xin tưởng tượng ấy, thuyền
trưởng Gốp tưởng tượng luôn câu tra? lời: “Thôi, cậu muốn đi đâu thì
đi, con **** nhỏ của tôi ạ. Nếu đôi cánh của cậu bị dính nhựa thì về nhà
cậu có thể lấy nước hoa Rôđa Mi-môđa mà rửa sạch được đấy”. Cái thứ
nước hoa tưởng tượng ấy làm thuyền trưởng thấy đắc ý hơn cả, ông buột
miệng nói thành lời: “Phải rồi, cậu hãy về nhà mà kiếm nước hoa Rôđa
Mi-môđa!”.

Nhưng rồi đoạn đối thoại tưởng tượng kia ngày càng ít có dịp lắp lại
trong tâm trí thuyền trưởng, bởi vì Grây đã đi tới đích mình mong muốn
với bộ mặt tái nhợt, đôi môi mím chắt. Anh đã làm mọi công việc nặng
nhọc với sự cố gắng lớn lao. Anh cảm thấy ngày càng dễ chịu hơn, khi con
tàu khắc nghiệt ấy gần gũi hơn với anh, khi mọi việc lạ trở thành quen
thuộc. Có khi dây xích mỏ neo làm anh ngã xuống sàn tàu, dây chão mà anh
không kéo nổi làm tuột da tay, cánh buồm ẩm ướt có đính vòng sắt bị gió
táp vào mặt anh. Tóm lại toàn bộ công việc thật sự là một thử thách,
đòi hỏi phải hết sức chú ý. Nhưng càng thở nặng nhọc, càng mỏi cứng
lưng, anh càng luôn luôn giữ được nụ cười coi khinh mọi gian khó. Anh âm
thầm chịu đựng những lời giễu cợt, chê bai của các thuỷ thủ dạn dày để
rồi cuối cùng, họ phải thừa nhận anh là người của họ, làm được như họ.
Và cũng từ đó anh nhất thiết dùng nắm đấm để đáp lại mọi xúc phạm.

Có lần thuyền trưởng Gốp trông thấy anh cuốn buồm thành thạo, đã tự nhủ
thầm: “Thế là mày đã thắng cuộc đấy, Grây ạ”. Khi Grây tụt từ trên cột
buồm cao xuống, thuyền trưởng gọi anh vào buồng, mở rộng trước mặt anh
một cuốn sách đã nhàu nát rồi nói;

- Cháu nghe đây! Bỏ hút thuốc đi! Đã đến lúc cho cháu làm thuyền trưởng được rồi!

Và anh bắt đầu đọc, đúng hơn là nói và gào to những từ cổ xưa về biển
trong cuốn sách. Đó là bài học đầu tiên của Grây. Trong vòng một năm,
anh đã làm quen với nghề hàng hải, với thực hành, với cấu trúc tàu, luật
đi biển, bản đồ hoa tiêu và cách tính toán. Thuyền trưởng Gốp đã bắt
tay và xưng “chúng ta”với anh.

ở Van-cu-ve, Grây nhận được thư mẹ, một bức thư đầy nước mắt và sợ hãi.
Anh viết thư tra? lời: “Con biết mẹ lo cho con. Nhưng nếu mẹ tận mắt
nhìn thấy được như con nhìn, mẹ hãy nhìn bằng đôi mắt của con. Nếu mẹ
nghe được như con nghe, mẹ hãy áp tai vào con ốc biển, mẹ sẽ nghe thấy
âm thanh muôn đời của sóng. Nếu như mẹ yêu thương tất ca? những gì con
đã yêu, thì trong thư của mẹ, ngoài tình thương và con người, con có thể
thấy ca? nụ cười”. Và Grây vẫn tiếp tục cuộc hành trình trên biển cho
đến khi con tàu A-xem chở hàng về bến Đu-ben. Tranh thủ lúc tàu dỡ hàng,
chàng thanh niên Grây, lúc này đã hai mươi tuổi, quyết định trở về thăm
lâu đài.

Toàn cảnh lâu đài vẫn như xưa, từng chi tiết nhỏ cũng như ca? ấn tượng
chung đều vẫn thể, không khác gì năm năm trước đây, chỉ có những hàng
cây du còn non trồng phía trước lâu đài là cao lớn hơn, tán lá sum suê
hơn.

Những người làm công trong nhà chạy ra đón anh mừng rỡ, cuống quít rồi
lặng đi một cách kính cẩn như mới hôm qua gặp gỡ cậu Grây này. Họ chỉ
cho anh mẹ anh hiện đang ở đâu. Anh bước lên căn phòng xây cao, nhẹ nhà
mở cửa, lặng yên đứng nhìn người phụ nữ tóc bạc vận đồ đen. Bà đang đứng
trước tấm ảnh Chúa lầm rầm cầu nguyện. Giọng nói nhỏ nhẹ của bà nghe
vang xa như tiếng đập của trái tim. “Cầu Chúa ban phước lành cho những
người đi biển, những người lênh đênh ngoài khơi, những người bị Ốm yếu,
đau khổ, tù đày”. Grây lắng nghe, sau đó anh thấy mẹ nói tiếp: “Cầu cho
đứa con trai tôi... ” Đến lúc ấy anh mới nói: “Con đây... ” Nhưng rồi
anh không thể nói thêm gì nữa. Người mẹ quay lại. Trông bà gầy đi nhiều,
gương mặt nghiêm trang của bà bỗng rạng rỡ lên như tuổi trẻ bất chợt
trở lại với bà. Bà bước nhanh về phía con trai, bà cười lên thành tiếng,
khẽ gọi con, nước mắt trào ra - tất ca? chỉ có thế. Nhưng trong giây
phút ấy, có lẽ bà đã sống mạnh mẽ hơn, sung sướng hơn so với ca? cuộc
đời bà trước đây. “Mẹ nhận ra con ngay, con trai yêu quý, bé bỏng của
mẹ!”. Và qua? thực là Grây lúc này không còn là chàng thanh niên cao lớn
nữa. Anh nghe mẹ kể lại cái chết của người cha, rồi sau đó anh tự kể về
mình. Bà nghe con kể mà không phản đối, trách móc một điều gì. Nhưng bà
thầm nghĩ rằng cái điều mà Grây cho là cốt lõi của cuộc đời mình thì bà
chỉ coi là những thứ đồ chơi mà cậu con trai bà thích chơi mà thôi.
Những thứ “đồ chơi” đó là con tàu, biển khơi và các lục địa.

Grây ở lại lâu đài bảy ngày. Đến ngày thứ tám, sau khi mang theo một số
tiền lớn, anh trở về Đu-ben và nói với thuyền trưởng Gốp: “Cám ơn bác.
Bác là người bạn rất tốt của cháu. Nhưng bây giờ thì phải chia tay thôi
bác ạ, - đến đây anh nắm chặt tay thuyền trưởng như để nhấn mạnh ý nghĩa
của lời mình nói. - Bây giờ cháu sẽ đi biển trên một chiếc tàu riêng
của cháu, bác ạ”. Thuyền trưởng nổi giận, ông nhổ nước bọt, giật tay ra
rồi bỏ đi. Nhưng Grây đã chạy theo, ôm lấy ông. Thế rồi họ đã cùng với
toàn đội thuỷ thủ gồm hai mươi bốn người ngồi bên nhau trong khách sạn
ăn uống đủ mọi thứ có trong quầy hàng và trong nhà bếp, hò hét, hát
hỏng.

ít lâu sau, trên bến cảng Đu-ben, những vì sao đêm đã lấp lánh trên bóng
đen của một con tàu mới. Đó là con tàu Grây mới mua. Con tàu có tên là
Bí mật, có ba cột buồm và chở được hai trăm sáu mươi tấn. Trước khi số
phận đưa đẩy anh đến thị trấn Li-xơ, Grây đã vừa là chủ vừa là thuyền
trưởng của con tàu ấy được bốn năm. Nhưng anh mãi mãi ghi nhớ tiếng cười
yêu thương của mẹ khi gặp anh và năm nào anh cũng về thăm nhà đôi ba
lần, đem lại cho người mẹ già tóc bạc niềm tin mơ hồ rằng cậu con trai
to lớn kia chắc là đã điều khiển được những thứ “đồ chơi” của mình.
Về Đầu Trang Go down
https://duonghoalac-hoabinh.forumvi.com
Admin
Admin
Admin
Admin

Tổng số bài gửi : 1754
Điểm : 6794
Ngày tham gia : 22/12/2010
Tuổi : 39
Đến từ : Hà Nội
Level: 39 Kinh nghiệm: 1754%
Sinh mệnh: 1754/100
Pháp lực: 39/100

NGƯỜI ĐIỀU HÀNH
Phù hiệu: Cánh buồm đỏ thắm POLLICE

Cánh buồm đỏ thắm Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Cánh buồm đỏ thắm   Cánh buồm đỏ thắm Icon_minitimeTue Mar 15, 2011 7:53 pm

Chương 3: Rạng đông

Con tàu Bí mật của Grây rẽ sóng, bọt tung lên vạch trên
đại dương một vệt trắng và tắt dần trong ánh lửa đêm lấp loáng của thị
trấn Li-xơ. Tàu tha? neo cách ngọn đèn biển không xa.

Mười ngày liền người ta dỡ vải đũi, cà phê, chè từ tàu Bí mật xuống bến.
Ngày thứ mười một, các thuỷ thủ lên bờ nghỉ ngơi, vui chơi. Đến ngày
thứ mười hai Grây hết sức buồn rầu mà không có lý do nào, anh không hiểu
tâm trạng của mình.

Ngay buổi sáng sau khi thức dậy, Grây cảm thấy rằng ngày hôm nay sẽ bắt
đầu dưới những đám mây đen. Anh uể oải mặc quần áo, miễn cưỡng ăn sáng,
quên ca? đọc báo, rồi lấy thuốc ra hút liên miên, đắm mình trong cái thế
giới căng thẳng không mục đích khó ta?. Những ước muốn chưa được chấp
nhận lởn vởn giữa những cố gắng ngang nhau. Anh quyết định làm việc.

Cùng với thuỷ thủ trưởng, Grây đi kiểm tra tàu, cho buộc căng dây buồm,
nới cáp lái, cọ sạch lỗ dẫn cáp, thay buồm, quét nhựa boong tàu, thông
gió hầm tàu, lau la bàn. Nhưng công việc không làm cho Grây khuây khoa?.
Ca? ngày hôm đó Grây cảm thấy bồn chồn, lo âu pha lẫn nỗi bực bội dường
như có ai đã hẹn anh đi đâu đấy nhưng anh lại quên khuấy đi mất ai hẹn
và hẹn đi đâu.

Buổi tối, anh ngồi trong buồng tàu, lấy sách ra đọc, ghi bên lề sách
những ý kiến phản bác lại tác gia?. Trò tiêu khiển bằng cách nói chuyện
với người chết có quyền lực ở dưới nấm mồ chỉ làm anh thú vị được một
lúc. Sau đó anh lại lấy tẩu thuốc ra, tha? mình theo làn khói xanh, trầm
ngâm giữa những đường viền huyền ảo hiện ra trong lớp khói bồng bềnh.

Thuốc lá có sức mạnh ghê gớm, như dầu đổ xuống những con sóng đang vọt
lên, làm dịu đi cơn điên loạn của chúng. Thuốc lá giảm bớt sự kích động
của tình cảm, đưa chúng về nhịp điệu thấp hơn, để chúng vang lên nhịp
nhàng hơn và có nhạc điệu hơn. Vì vậy, sau khi hút ba tẩu thuốc, nỗi
buồn của Grây chuyển thành sự lơ đãng trầm tư. Cảm giác ấy kéo dài chừng
một giờ đồng hồ. Khi những phút mơ màng đã qua đi, Grây chợt bừng tỉnh,
anh muốn đi đi lại lại và bước ra boong tàu. Đêm đã xuống từ lâu bên
mạn tàu, trong làn nước đen thẫm lấp lánh những vì sao và những ánh đèn
trên cột buồm. Bầu không khí ấm áp đậm đà hương biển. Grây ngẩng đầu
lên, nheo mắt nhìn một vì sao. Trong giây lát, vượt qua triệu triệu cây
số, ánh sáng vì sao xa hiện ra trong mắt anh. Tiếng ồn ào xa xa của bến
cảng ban đêm đã vang lên rõ nét trong vụng biển. Thỉnh thoảng có câu nói
từ trên bờ lướt theo gió, truyền lan trên làn nước nhạy cảm, vọng đến
trưởng như tiếng người nói ở ngay trên boong, nó vang lên rồi tắt đi
trong tiếng kẽo kẹt của dây chão. Phía mũi tàu có ánh diêm bật lên, soi
rõ bàn tay, đôi mắt tròn và bộ ria mép. Grây huýt sáo, đốm lửa ở tẩu
thuốc chuyển động, tiến lại gần anh. Một lát sau thuyền trưởng nhận ra
trong bóng tối gương mặt và đôi tay người trực nhật. Grây nói

- Anh nhắn Lê-chi-ca lát nữa đi theo tôi. Bảo anh ta nhớ đem theo cần câu.

Anh trèo xuống chiếc thuyền nhỏ bên mạn tàu, ngồi chờ ở đấy chừng mười
phút. Lê-chi-ca, một chàng trai nhanh nhẹn, ranh mãnh, đưa xuống cho
Grây đôi mái chèo. Sau đó anh ta cũng xuống thuyền, đặt túi đựng thức ăn
lên sàn, Grây ngồi vào chỗ lái.

- Thuyền trưởng ra lệnh đi đâu đấy ạ? - Lê-chi-ca vừa hỏi vừa đảo mũi thuyền bằng cách khoa? mạnh một bên mái chèo xuống nước.

Thuyền trưởng im lặng. Lê-chi-ca hiểu ngay rằng không nên hỏi thêm câu gì, anh im lặng chèo mạnh.

Grây lái thuyền ra khơi, sau đó anh bơi về phía bên trái. Đối với anh,
thuyền đi về phía nào cũng được. Chỉ có tiếng mái chèo khoa? xuống nước,
tiếng bánh lái rẽ nước, còn xung quanh là biển đêm yên lặng.

Trong một ngày trời, con người đã gặp biết bao ấn tượng, biết bao ý
nghĩ, lời nói, mà nếu ghi lại chắc sẽ thành không phải chỉ một cuốn sách
dày. Gương mặt mỗi ngày có những đường nét nhất định. Nhưng hôm nay
Grây đã bất lực khi cố bắt lấy dáng hình của nó. Những tình cảm mơ hồ
khó có tên gọi đã hiện lên trên gương mặt ấy. Dù có gọi chúng bằng từ
ngữ gì thì cuối cùng chúng vẫn mơ hồ, mông lung như hương thơm của loài
hoa. Lúc này, Grây cũng đang ở trong tâm trạng đó, thực ra anh có thể
nói rằng: “Tôi đang chờ, tôi đang thấy và sắp được biết... ” - nhưng
ngay ca? những lời này cũng chẳng nhiều nhặn gì hơn những bản vẽ chi
tiết đối với một ý đồ kiến trúc. Trong những xu hướng đó còn có ca? sức
mạnh của sự hưng phấn tươi tắn.

Phía bên trái con thuyền họ đang bơi, bờ biển hiện ra thấp thoáng sau
màn đêm gợn sóng. Phía trên những tấm kính cửa sổ sáng đèn, các tàn lửa
bắn lên từ các ống khói. Đó là làng Ca-péc-na. Grây nghe loáng thoáng có
tiếng người cãi nhau và tiếng chó sủa. ánh lửa trong làng trông xa tựa
như cánh cửa lò với những lỗ thủng mà qua đó có thể thấy than đang cháy
hồng.Phía bên phải là biển yên lặng như một người đang ngủ. Qua làng
Ca-péc-na, Grây cho thuyền ghé vào bờ. Sóng đều đều vỗ nhẹ vào bờ. Châm
đèn bão lên, Grây nhìn thấy một chỗ trũng, bên trên là bờ vách nhô ra
cheo leo. Anh cảm thấy thích.

- Ta sẽ câu cá ở đây thôi, - Grây vừa nói vừa vỗ vai Lê-chi-ca.

Người thuỷ thủ “hừm” một tiếng rồi làu bàu: “Lần đầu tiên mình đi biển
với một thuyền trưởng như thế này. Ông ta thạo việc, nhưng kỳ cục làm
sao. Thật là một thuyền trưởng quá cầu toàn. Nhưng mình vẫn yêu mến ông
ta”.

Anh ta cắm mái chèo xuống bùn để neo thuyền lại, rồi ca? hai người bám
vào những mỏm đá lởm chởm phía dưới đầu gối và khuỷu tay để trèo lên
cao. Một cánh rừng rậm trải dài tới bờ vách ấy. Lê-chi-ca lấy rìu đẵn
mấy cành cây khô rồi nhóm lửa trên bờ. Những cái bóng và ngọn lửa phản
chiếu dưới nước chuyển động, cỏ xanh và cành lá sáng lên trong bóng tối
bị đẩy lùi, phía trên đống lửa, không khí quện khói lấp loáng, run rẩy.

Grây ngồi bên đống lửa.

- Nào, - anh vừa nói vừa chìa chai rượu ra, - nào ta uống đi, anh bạn
Lê-chi-ca, uống vì sức khoẻ của tất ca? những người không nghiện rượu. à
mà cậu đem đi rượu gừng, chứ không phải là rượu canh-ki-na rồi.

- Xin lỗi thuyền trưởng, - người thuỷ thủ vừa đáp vừa thở mạnh. - Cho
phép tôi nhắm với thứ thức ăn này... - Anh ta gặm ngay nửa con gà con,
rồi nhè miếng cánh ra, tiếp tục nói: - Tôi biết thuyền trưởng thích thứ
rượu canh-ki-na, nhưng vì lúc ấy tối quá mà lại vội nữa nên tôi lấy nhầm
phải chai rượu gừng. Thuyền trưởng biết đấy, gừng làm con người ta ngổ
ngáo. Khi nào cần phải đánh nhau, tôi đều uống rượu gừng.

Thuyền trưởng vừa uống vừa ăn. Lê-chi-ca liếc nhìn anh, rồi không gìm được, bèn hỏi:

- Thưa thuyền trưởng, có thật là thuyền trưởng xuất thân từ một gia đình quyền quý khôg?

- Cái đấy chẳng có gì đáng lưu tâm cả, Lê-chi-ca ạ. Cầm cần câu mà câu đi, nếu cậu muốn.

- Còn thuyền trưởng thì sao?

- Tôi ấy à? Không biết, cũng có thể. Nhưng mà... chốc nữa sẽ hay.

Lê-chi-ca lấy cần câu ra, rồi theo thói quen, ứng khẩu một tràng thành vần (điều thường vẫn làm bạn bè thán phục):

- Cước đây ta buộc vào cần, lưỡi câu buộc tiếp lần lần ta câu.- Anh ta
lấy mồi giun trong hộp ra rồi đọc tiếp: - Chú mày ẩn dưới đất sâu, cuộc
đời kỳ thú còn rầu nỗi chi. Bây giờ chịu móc câu đi, chốc nữa tụi cá nó
ghì nó ăn. - Cuối cùng anh ta vừa đi vừa nghêu ngao: - Đêm đen vắng
lặng, rượu ngon tuyệt vời, cá chiên cuống cuồng, cá trích chết giấc -
kìa Lê-chi-ca, hắn đang đợi ta!

Grây nằm lại bên đống lửa, nhìn ánh lửa in hình dưới làn nước. Anh miên
man nghĩ ngợi, không để lý trí can dự vào. Trong trạng thái này, ý nghĩ
chỉ lờ mờ lưu giữ thực tại, thấy nó một cách mơ hồ, ý nghĩ đó lao vút
lên như một con ngựa trong đám đông chật chội, vừa chèn, vừa xô, vừa
ngăn chặn. Sự trống rỗng, sự bối rối và sự ngưng đọng lần lượt đến với
nó. Nó lang thang trong linh *** của sự vật, vội vàng chuyển từ xúc động
mạnh sang bóng gió thầm kín, nó lượn quanh trái đất và bầu trời, chuyện
trò sôi nổi với các nhân vật tưởng tượng, xoá đi và tô điểm cho những
kỷ niệm. Trong sự chuyển động mơ hồ này, mọi cái đều sinh động, rõ ràng,
và mọi cái đều thiếu mạch lạc như hoang tưởng. Và nhận thức được buông
lơi luôn mỉm cười khi thấy chẳng hạn đang suy nghĩ về số phận bỗng dưng
lại nghĩ đến một hình ảnh hoàn toàn không thích hợp: một cành cây gãy
cách đây hai năm. Nằm bên đống lửa, Grây suy nghĩ, nhưng anh “ở đâu ấy”
chứ không phải đang ở đây.

Khuỷu tay dùng để tựa, cánh tay dùng để nâng đầu đã bị ướt và tê đi. Các
vì sao toa? sáng nhợt nhạt. Bóng tối thêm dày, báo trước buổi rạng
đông. Thuyền trưởng thiu thiu ngủ, nhưng anh không hề biết điều đó. Anh
bỗng thấy thèm uống rượu, anh nhoài người với chiếc túi, lần cởi ra
trong mơ. Sau đó anh không nằm mơ nữa mà ngủ rất say. Hai giờ sau đó đối
với Grây cũng chẳng dài hơn những giây phút anh nga? đầu xuống bàn tay.
Trong khoảng thời gian đó, hai lần Lê-chi-ca quay về chỗ đống lửa, hút
thuốc và tò mò nhìn vào miệng những con cá câu được xem có gì không.
Nhưng dĩ nhiên là chẳng có gì.

Khi tỉnh dậy, trong giây lát Grây quên mất không biết vì sao mình lại ở
chốn này. Anh ngạc nhiên thấy những tia nắng sớm mai vui tươi, bờ biển
dựng đứng và những tán lá rực rỡ, xa xa bừng sáng một màu xanh. Trên
đường chân trời và cũng là phía trên chân anh lơ lửng những cành dẻ.
Phía dưới bờ vách, dường như ở ngay dưới lưng anh, là tiếng sóng vỗ rì
rầm. Những giọt sương thấp thoáng trên cành lá rơi xuống khuôn mặt ngái
ngủ của anh, mát lạnh. Anh đứng dậy. Xung quanh chan hoà ánh sáng. Những
cành khô cháy dở chỉ còn leo lét khói. Mùi khói làm cho khoái cảm được
thở hít không khí của rừng cây có thêm một vẻ đẹp hoang dã.

Lê-chi-ca không có đấy. Anh ta đã đi câu say sưa như một con bạc khát
nước, mồ hôi đầm đìa. Grây bước ra khỏi cánh rừng, đi về phía những bụi
cây thấp mọc trên sườn đồi thoai thoải. Cỏ bốc hơi âm ấm. Những bông hoa
ướt đẫm trông như bọn trẻ con bị tắm nước lạnh. Thế giới màu xanh thở
hít bằng vô vàn cái miệng nhỏ xíu là vướng chân Grây trong cảnh đua chen
náo nức. Thuyền trưởng bước ra một chỗ trống, cỏ hoa sặc sỡ, và nhìn
thấy một cô gái đang ngủ.

Anh nhẹ nhàng gạt cành lá trước mặt sang một bên rồi dừng lại với cảm
giác là vừa tìm ra một cái gì đó nguy hại. Cách anh chưa đầy năm bước là
A-xôn đang nằm nghiêng, chân duỗi, chân co, đầu gối lên cánh tay, vẻ
mệt mỏi. Tóc cô để xoã, chiếc cúc áo phía trên không cài để lộ làn da
trắng mịn, chiếc váy xoè ra để hở đến đầu gối, hàng mi dài, món tóc màu
sẫm che một phần thái dương, ngón út bên tay phải cô gối đầu lên bị gập
lại dưới gáy. Grây quỳ xuống ngắm nhìn cô gái, và không ngờ rằng lúc ấy
trông chàng giống như thần Phô-nơ trong tranh của ác-nôn- đơ Béc-lin.

Có thể là trong một lúc nào khác, Grây chỉ nhìn thấy cô gái bằng đôi mắt
thường, nhưng lúc này anh nhìn thấy cô một cách khác. Lòng anh nôn nao,
xao động. Đương nhiên anh không biết cô là ai, không biết tên, càng
không biết vì sao cô ngủ bên bờ biển, nhưng anh cảm thấy rất hài lòng.
Anh yêu thích những bức tranh không có lời giải thích nội dung. ấn tượng
từ bức tranh như thế bao giờ cũng mạnh mẽ hơn nhiều, không bị ràng buộc
bởi từ ngữ, nội dung của nó trở nên sâu xa vô tận, khẳng định mọi ý
nghĩ, mọi dự đoán.

Mặt trời đã lên cao mà Grây vẫn trong tư thế ngồi không thuận ấy. Cô gái
ngủ say đến mức dường như từ mái tóc đến làn áo, đến cỏ cây xung qunah
cũng đều ngủ theo cô. Tràn trề ấn tượng, Grây như hoà mình vào làn sóng
ấm áp đang dâng lên trong anh và bơi theo sóng. Đã từ lâu Lê-chi-ca gọi:
“Thuyền trưởng ơi, anh ở đâu?”- nhưng thuyền trưởng vẫn không nghe
tiếng.

Cuối cùng, khi Grây đứng dậy, bản tính ưa thích những chuyện khác thường
đã xâm chiếm anh một cách bất ngờ với thái độ cương quyết và hăng hái
của một người phụ nữ nổi giận. Anh trầm ngâm tháo chiếc nhẫn cổ quý giá
khỏi ngón tay, không hề suy nghĩ rằng chưa chừng cái vật này đang mách
bảo cho cuộc sống một cái gì đó thực quan trọng. Anh nhẹ nhàng lồng
chiếc nhẫn vào ngón tay út của cô gái để lộ ra bên gáy. Ngón tay bất
giác động đậy rồi thõng xuống. Nhìn gương mặt cô nữa, Grây quay đi và
bỗng thấy Lê-chi-ca đứng sau bụi cây, đôi lông mày rướn lên. Lê-chi-ca
há hốc miệng kinh ngạc theo dõi cử chỉ vừa rồi của Grây.

- Lê-chi-ca đấy à! - Grây nói. - Cậu thử nhìn cô ta xem. Thế nào, đẹp đấy chứ?

- Thật là một bức tranh tuyệt vời! - chàng thuỷ thủ thích nói văn hoa
khẽ thốt lên. - Tôi câu được bốn con cá và một con gì to tròn như cái
bong bóng.

- Khẽ chứ, Lê-chi-ca. Ta đi khỏi đây thôi.

Hai người đi về phía bụi cây. Lẽ ra lúc này họ phải quay về chỗ để
thuyền, nhưng Grây chần chừ đưa mắt xa xa về phía bờ biển thấp, nơi có
những làn khói ban mai của làng Ca-péc-na toa? ra bên trên cây cối và
nền cát. Anh lại thấy hình ảnh cô gái hiện ra qua làn khói.

Lúc ấy, Grây bèn đi thẳng về hướng làng. Lê-chi-ca không hỏi vì sao lại
thế, chỉ lặng lẽ bước theo sau. Lê-chi-ca cảm thấy rằng những phút phải
im lặng lại đến. Một lát sau, khi đến gần những ngôi nhà đầu tiên, Grây
bỗng cất tiếng hỏi:

- Lê-chi-ca, với kinh nghiệm của cậu, cậu thử xác định xem nhà nào có thể là quán rượu?

- Chắc là cái nhà mái đen đen kia, - Lê-chi-ca phỏng đoán, - mà cũng có thể không phải nó.

- Thế cái nhà mái đen ấy có gì đặc biệt?

- Chính tôi cũng không biết, thưa thuyền trưởng. Đó chỉ là do trái tim mách bảo thôi.

Hai người đi đến ngôi nhà đó, qua? thật, đó là quán rượu của Khin
Mê-néc. Trên chiếc bàn kê cạnh cửa sổ mở toang có thể nhìn thấy một
chiếc chai, cạnh đó có một người đang đưa những ngón tay đen bẩn mân mê
bộ ria mép nga? màu bạc trắng.

Mặc dù còn sớm, trong quán rượu đã có ba người. Ngồi cạnh cửa sổ là bác
thợ đốt than có bộ ria vừa được nhắc đến. Ở quãng giữa quầy hàng và cửa
bên trong quán là hai người dân chài đang uống bia và ăn trứng rán. Khin
Mê-néc là một gã trẻ tuổi cao lêu đêu, gương mặt buồn tẻ đầy tàn hương,
đôi mắt hấp háy, cử chỉ nhanh nhẹn một cách ranh mãnh như vẫn thường
thấy ở bọn người chuyên buôn bán. Y đang đứng sau quầy lau bát đĩa. Dưới
ánh mặt trời buổi sáng, bóng song cửa sổ in trên nền nhà bẩn thỉu.

Grây vừa bước vào gian phòng đầy khói thì Khin Mê-néc đã lễ phép cúi
chào rồi bước ra khỏi quầy. Y lập tức đoán ra Grây là một thuyền trưởng
thật sự - loại khách chẳng mấy khi ghé vào quán rượu của y. Grây gọi
rượu rum. Trải trên bàn tấm khăn đã nga? màu cháo lòng, Khin Mê-néc đem
chai rượu đến, đưa lưỡi liếm thử vào chỗ nhãn chai và bóc ra. Sau đó y
quay trở vào sau quầy, lúc thì nhìn Grây chăm chú, lúc thì nhìn lên
chiếc đĩa, lấy móng tay cạy miếng gì khô khô bám vào đấy.

Khi Lê-chi-ca đang cầm cốc rượu bằng ca? hai tay, khẽ nói chuyện với
Grây và nhìn ra ngoài cửa sổ thì anh vẫy tay gọi Khin Mê-néc lại. Khin
Mê-néc ngồi ghé lên chiếc ghế, thích chí ra mặt vì được một người sang
trọng như Grây gọi đến và nhất là lại gọi bằng cách ra hiệu như thế.

- Chắc anh biết tất ca? dân làng ở đây chứ? - Grây bình thản hỏi. - Tôi
muốn biết tên cô gái choàng khăn, mặc áo hoa đỏ, tóc sẫm màu hạt dẻ,
người tầm thước, tuổi trạc mười tám, đôi mươi. Tôi vừa thấy cô ấy cách
đây không xa. Tên cô ấy là gì?

Anh nói những lời này với giọng giản dị, dứt khoát, khiến người nghe
không lẩn tránh được tra? lời. Khin Mê-néc hơi cảm thấy khó chịu, thậm
chí còn cười thầm, nhưng y không dám để lộ ra. Tuy nhiên trước khi tra?
lời, y dừng lại nghĩ một lát - chẳng qua chỉ vì cố đoán mà biết được
chuyện gì đã xảy ra.

- E hèm, - Khin Mê-néc cất giọng, mắt ngước nhìn lên trần. - Chắc là con
A-xôn “Tàu thuỷ” đấy mà. Không thể có ai khác. Nó bị dở người đấy.

- Nói rõ hơn xem nào? - Grây lãnh đạm hỏi, uống thêm một ngụm rượu đầy. - Chuyện thật là thế nào?

- Nếu ông muốn, xin ông nghe đây.

Và khin Mê-néc đã kể cho Grây nghe câu chuyện cáh đó bảy năm khi cô bé
A-xôn gặp một ông già chuyên đi sưu tầm chuyện dân gian ở ngoài bờ biển.
Thật ra thì câu chuyện đó, kể từ khi người ăn mày khẳng định thêm trong
quán rượu này đã bị xuyên tạc méo mó đi nhiều, nhưng cốt lõi của nó vẫn
còn nguyên vẹn.

- Từ dạo ấy dân làng bèn gọi nó là A-xôn “Tàu thuỷ”, - Khin Mê-néc kết thúc câu chuyện.

Grây bất giác liếc nhìn Lê-chi-ca lúc này vẫn khiêm nhường ngồi im. Sau
đó anh đưa mắt nhìn ra ngoài con đường đất bụi chạy qua quán rượu. Đúng
vào lúc đó, anh bỗng cảm thấy đầu óc và trái tim mình choáng váng. Trên
con đường ấy, anh chợt thấy đi ngược lại phía anh chính là cô gái A-xôn
“Tàu thuỷ” mà tên chủ quan vừa khinh bỉ nhắc đến. Gương mặt đẹp tuyệt
vời của cô giống như sức mạnh bí ẩn trong những lời nói giản dị đầy xúc
động của con người. Gương mặt cô hài hoà tuyệt diệu với ánh mắt trong
sáng. Lê-chi-ca và chủ quán đều ngồi quay lưng lại cửa sổ. Để cho họ
tình cờ không quay lại nhìn A-xôn, Grây đã có đủ can đảm nhìn sang đôi
mắt màu hung của Khin Mê-néc. Ngay sau khi anh nhìn thấy ánh mắt A-xôn,
những lời đơm đặt xấu xa của chủ quán đã lập tức bị xua tan. Lúc ấy,
không hay biết điều gì vừa xảy ra, Khin Mê-néc nói tiếp:

- Có thể cho ông biết thêm rằng bố cô ta là một tên đê tiện. Chính lão
ta đã dìm chết bố tôi như dìm một con mèo. Lạy Chúa, lão ta...

Bỗng một tiếng rống lên bất ngờ từ phía sau cắt ngang lời y. Cặp mắt
long lên dữ tợn, người thợ đốt than như chợt tỉnh cơn say, cất giọng hát
ồ ồ làm mọi người phải giật mình.

- Ờ, lão lại say rồi, lão già khốn kiếp! - Khin Mê-néc quát lên. - Cút!

Nhưng ông lão đốt than vẫn nghêu ngao hát tiếp như không có chuyện gì xảy ra, rồi để ca? ria mép nhúng vào cốc rượu.

Khin Mê-néc tức giận nhún vai:

- Thật là đồ bỏ đi chứ không phải là người nữa, - y nói với vẻ tự đắc của một tên keo kiệt. Lần nào cũng vậy!

- Anh không thể kể thêm gì nữa chứ? - Grây hỏi y.

- Tôi ấy à? Thì tôi vừa nói với ông rồi, bố cô ta là một tên vô lại. Vì
nó mà, thưa ông, tôi đã bị mồ côi, ngay từ nhỏ đã phải tự mình kiếm
sống...

- Mày nói láo, - bất ngờ ông thợ đốt than lên tiếng. - Mày nó láo ghê tởm, gia? dối đến mức làm tao tỉnh ca? rượu.

Khin Mê-néc chưa kịp mở mồm thì ông già đã quay sang nói với Grây:

- Hắn nói láo đấy ông ạ. Bố nó cũng là đồ dối trá, mẹ nó cũng cùng một
giuộc. Ca? họ nhà nó thế mà. Ông có thể hoàn toàn yên tâm: cô ta chắc
chắn cũng khoẻ mạnh, bình thường như chúng ta ca? thôi. Tôi đã nhiều lần
nói chuyện với cô ta. Cô ta đã ngồi nhờ xe ngựa của tôi tám mươi tư lần
hay ít hơn một chút. Mỗi khi cô gái đi bộ từ thị trấn về, còn tôi thì
đã bán xong than, thế nào tôi cũng cho cô gái đi nhờ xe về làng. Cứ để
cho cô ta ngồi. Tôi biết, cô ta là người phúc hậu. Điều đó thật là quá
rõ. Tất nhiên cô ta không thèm nói với mày nửa lời, Khin Mê-néc ạ. Nhưng
đối với tôi, thưa ông, trong công việc làm than thoải mái, tôi khinh
thường miệng thế, điều ong tiếng ve. Cô ta nói năng như người lớn nhưng
kỳ quặc lắm ông ạ. Xem ra thì cô ấy cũng nói những điều như chúng ta nói
ca? thôi, nhưng lại không hẳn giống thế. Chẳng hạn như khi cô ta kể lại
công việc của mình. “Bác ạ, cháu kể cho bác nghe nhé, - cô ta vừa nói
vừa bá vào vai tôi, như con **** đậu vào gác chuông. - Công việc của
cháu cũng không đến nỗi buồn tẻ, nhưng cháu vẫn muốn nghĩ ra một cái gì
đó đặc biệt. Cháu muốn con tàu mà cháu làm bơi được, các tay chèo khoa?
nước như thật, sau đó thuyền vào bờ, cập bến rồi ngồi ăn như thật”. Tôi
cười khà khà và tra? lời cô ta: “Này, A-xôn này, nghề của cháu là thế
nên cháu nghĩ thế, nhưng mà cháu thử nhìn xung quanh xem: mọi người làm
việc như điên”. Cô ta nói: “Không bác ạ, cháu biết điều gì cháu biết.
Khi người dân chài đánh cá thì họ nghĩ rằng họ sẽ bắt được con cá to
nhất, chưa từng ai bắt được”. - “Thế bác thì sao?”- Cô ta cười: “Bác ấy
à, bác thì khi xếp than vào giỏ chắc là bác nghĩ rằng chúng sẽ nở thành
hoa”. Đấy, cô ta đã nói những lời như thế. Trong giây phút đó, tôi bất
giác nhìn vào cái giỏ trống không. Tôi trông thấy hình như có những chồi
non mọc lên ở nan giỏ, chúng nở tung, nảy lá khắp giỏ và biến mất. Tôi
đã tỉnh rượu một chút! Còn Khin Mê-néc hắn nói dối đấy. Nói dối không
mất tiền. Tôi biết hắn.

Cho rằng câu chuyện đã đi đến chỗ xúc phạm ghê gớm, tên chủ quán bèn đưa
mắt lườm ông già rồi lỉnh vào sau quầy hàng, cay đắng hỏi vọng ra:

- Ông có cho gọi thêm gì không ạ?

- Không, - Grây tra? lời, rút tiền trong ví ra. - Đi thôi, Lê-chi-ca,
cậu ở lại đây nhé và đừng nói gì cả, đến chập tối hãy về tàu. Cậu gắng
tìm hiểu mọi chuyện rồi kể lại cho mình. Cậu hiểu chứ?

- Thưa thuyền trưởng tốt bụng, - Lê-chi-ca trả lời với giọng hơi suồng
sã, có lẽ vì ngấm hơi rum, - chỉ có thằng điếc mới không hiểu điều đó
thôi ạ.

- Tốt lắm. Cậu nên nhớ rằng, trong trường hợp nào cậu cũng không được
nói đến mình hay nhắc đến tên mình, nghe chưa? Thôi, tạm biệt.

Grây bước ra khỏi quán. Từ lúc đó anh luôn có cảm giác như phát hiện
được điều gì thật khác thường, tựa hồ tia lửa trong cối thuốc súng của
Béc-tôn- đơ - một trong những cú sụt lở tâm hồn mà từ đó bật lên một
ngọn lửa rực sáng. ý nghĩ phải hành động ngay lập tức chi phối anh. Mãi
đến khi ngồi vào thuyền, anh mới tĩnh tâm và tập trung suy nghĩ được.
Anh vừa cười vừa nga? lòng bàn tay hứng ánh nắng mặt trời, như anh đã
từng làm thuở còn bé trong hầm rượu. Sau đó anh khoa? mạnh mái chèo
xuống nước, cho thuyền lướt nhanh về bến.
Về Đầu Trang Go down
https://duonghoalac-hoabinh.forumvi.com
Admin
Admin
Admin
Admin

Tổng số bài gửi : 1754
Điểm : 6794
Ngày tham gia : 22/12/2010
Tuổi : 39
Đến từ : Hà Nội
Level: 39 Kinh nghiệm: 1754%
Sinh mệnh: 1754/100
Pháp lực: 39/100

NGƯỜI ĐIỀU HÀNH
Phù hiệu: Cánh buồm đỏ thắm POLLICE

Cánh buồm đỏ thắm Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Cánh buồm đỏ thắm   Cánh buồm đỏ thắm Icon_minitimeTue Mar 15, 2011 7:53 pm

Chương 4: Đêm trước

Bảy năm đã trôi qua kể từ khi ông già Ê-gơn, người chuyên
sưu tầm thơ ca dân gian, ngồi trên bờ biển kể cho A-xôn nghe câu chuyện
về con tàu với cánh buồm đỏ thắm. Trước ngày tròn bảy năm đó, A-xôn mang
hàng lên cửa hiệu bán đồ chơi theo lệ mỗi tuần một lần, trở về với vẻ
mặt buồn rầu. Cô phải mang hàng về. Cô cảm thấy buồn chán đến mức không
thể nói ngay được. Mãi đến khi thấy trên nét mặt lo âu của cha hiện lên
vẻ chờ đợi một cái gì đó xấu, xấu hơn chuyện đã xảy ra nhiều, thì cô mới
bắt đầu kể lại. Đứng bên cửa sổ, ngón tay xoa xoa lên mặt kính, cô lơ
đãng nhìn về phía biển.

Lần này, tên chủ hiệu đồ chơi bắt đầu bằng việc giở cuốn sổ tính toán ra
và chỉ cho A-xôn xem số tiền hai bố con đã lấy là bao nhiêu. Cô giật
mình nhìn thấy con số đến hàng trăm. “Đây là số tiền nhà cô đã mượn từ
tháng chạp đến nay, - tên chủ hiệu nói, - còn đây, cô xem hàng của cô đã
bán được bao nhiêu”. Nói xong, y giơ ngón tay chỉ sang một con số khác
chỉ có đến hàng chục. “Nhìn cuốn sổ đó, con vừa buồn vừa tức bố ạ. Trông
mặt con thấy ông ta, thật cáu kỉnh và thô lỗ. Giá bỏ chạy được thì con
thật sung sướng, nhưng nói thật là con không đủ sức nữa vì cảm thấy quá
xấu hổ”. Thế rồi ông ta bảo con: “Này, cô bé ạ, những thứ này chẳng lời
lãi gì nữa đâu. Bây giờ người ta đua nhau mua hàng ngoại, đâu đâu cũng
bày bán đầy những hàng ngoại, thứ đồ chơi này chẳng ai mua”. Ông ta nói
thế, bố ạ. Ông ta còn nói nhiều nữa, nhưng con cứ rối ruột lên chẳng nhớ
nữa. Chắc là ông ấy cũng thấy thương hại con nên khuyên con thử đến của
hiệu “Hội chợ trẻ em”và “Cây đèn thần của A-la- đanh”.

Nói xong điều chủ yếu nhất, cô gái rụt rè quay lại nhìn bố. Lông-gren
ngồi, đầu cúi xuống buồn bã, bàn tay kẹp lại giữa hai đầu gối. Cảm thấy
con gái đang nhìn mình, ông ngẩng đầu lên và thở dài, cố nén tâm trạng
buồn lo. Cô gái chạy lại bên ông, ngồi xuống cạnh rồi đặt bàn tay nhỏ
của mình xuống dưới ống tay áo da của bố. Cô ngước lên nhìn vào mặt bố,
cất tiếng cười và kể tiếp với giọng cố làm như vui vẻ:

- Không sao ca? đâu bố ạ. Thế rồi con đi khỏi đấy. Con đến một hiệu to
lắm, người mua tấp nập. Người ta chen lấn con ghê qua, nhưng rồi con vẫn
lách qua được và đến gần người đeo kính, vận đồ đen. Con không nhớ con
nói gì với ông ấy, cuối cùng ông ấy cười khẩy, lật xem các thứ trong
chiếc làn của con rồi lại gói và tra? lại.

Lông-gren bực bội nghe con kể. Dường như ông đã hình dung ra cảnh con
gái mình đang bối rối đứng bên quầy hàng bày đầy những thứ đắt tiền,
cạnh những khách mua giàu sang. Người chủ hiệu đeo kính nọ đã trịnh
thượng giảng giải cho cô gái rằng ông ta sẽ phá sản nếu đi buôn những
thứ đồ chơi thô sơ của Lông-gren. Ông ta ngạo mạn và nhanh nhẹn đặt lên
mặt quầy hàng cho A-xôn xem những mẫu đồ chơi ngoại quốc như bộ đồ xếp
nhà, cầu xe lửa, ô-tô con, các thứ đồ chơi chạy điện, máy bay, động cơ.
Những thứ hàng này mầu sắc sặc sỡ, hình dáng đẹp đẽ. Theo lời ông ta thì
bây giờ trẻ con chỉ muốn bắt chước những gì người lớn đang làm.

Sau đó cô đi rửa bát đĩa, rồi xem lương ăn trong nhà còn được bao nhiêu.
Cô không cân đo gì, chỉ ước tính bằng mắt cũng biết được rằng số bột
còn lại may lắm mới đủ ăn đến cuối tuần, hũ đường đã cạn đến đáy, lọ
đựng chè, đựng cà-phê hầu như đã rỗng không, bơ cũng hết, chỉ có túi
khoai tây là còn đầy. Tiếp đó cô lau nhà sạch sẽ rồi định khâu sửa lại
chiếc váy may bằng vải cũ. Chợt nhớ là gói vải để đằng sau gương, cô
bước tới đấy lấy vải rồi nhìn mình trong gương.

Trong khung gỗ, trên mặt gương sáng là hình một cô gái mảnh dẻ, tầm
thước, mặc chiếc áo may bằng vải trắng rẻ tiền điểm những đốm hoa màu
hồng. Chiếc khăn lụa màu xám vắt qua vai. Gương mặt đáng yêu. Đôi mắt
rất đẹp, hơi quá nghiêm nghị so với lứa tuổi của cô, phản chiếu một tâm
hồn sâu sắc. Gương mặt thật là trong sáng; mỗi đường nét trên gương mặt
này đều có thể thấy ở nhiều người phụ nữ khác, nhưng khi hoà hợp lại bên
nhau thì gương mặt cô gái trở nên thật đặc sắc, thật xinh đẹp. Chúng ta
chỉ có thể nói được thế. Vẻ đẹp của cô không thể dùng lời mà ta? được,
chỉ có thể thu gọn vào một tiếng là: “tuyệt”.

Cô gái trong gương bất giác cũng mỉm cười như A-xôn. Nụ cười có vẻ buồn.
Nhận thấy điều đó, cô bỗng cảm thấy ái ngại hệt như đang nhìn một người
con gái khác. Cô áp má vào gương, nhắm mắt lại, khẽ xoa xoa tay lên
gương nơi hình bóng mình vừa in. Những ý nghĩ mơ hồ dịu dàng thoáng hiện
trong óc cô, cô đứng thẳng người, cười rồi ngồi xuống khâu.

Khi cô gái ngồi khâu, chúng ta hãy thử nhìn cô gần hơn vào nội tâm.
Trong con người cô dường như có hai A-xôn cùng chung sống với một vẻ đẹp
thật khác thường. Một A-xôn là con gái người thuỷ thủ, người làm đồ
chơi trẻ con; một A-xôn khác lại là bài thơ sinh động với tất ca? sự
diệu kỳ của nhạc điệu và hình tượng, với bí quyết của những ngôn từ đứng
gần nhau, ca? nghĩa đen và nghĩa bóng đều hỗ trợ cho nhau. Cô gái chỉ
biết cuộc đời trong phạm vi những điều mình đã nếm trải, nhưng cô lại có
kha? năng nhìn thấy được ý nghĩa của một trật tự khác vượt ra ngoài
những hiện tượng chung. Chẳng hạn, khi nhìn kỹ vào sự vật, chúng ta thấy
ở đấy một cái gì đó không phải bằng trực giác mà bằng ấn tượng của con
người. Mà đã là của con người thì thật khác nhau. Tương tự như vậy, ta
cũng có thể nói rằng A-xôn đã thấy được ca? những cái mà mắt thường
không thấy. Thiếu đi đức tính ấy, mọi điều dễ hiểu có thể trở nên xa lạ
với tâm hồn cô. Cô biết đọc và rất thích đọc sách, nhưng ngay ca? khi
đọc sách, cô vẫn cảm nhận được những điều đặc biệt nằm giữa những hàng
chữ, như cô đã có kha? năng tương tự trong cuộc sống. Thông qua tiềm
thức, thông qua tâm trạng phấn hứng đặc biệt, cô đã luôn luôn phát hiện
ra những điều khó tả, rất tinh tế nhưng rất hệ trọng, như thể là hơi ấm
và sự trong lành. Thỉnh thoảng cô như biến thành một người khác trong
hàng mấy ngày liền; sự đối lập về vật chất của cuộc đời bị sụp đổ, như
sự yên tĩnh bị phá vỡ, và tất ca? mọi cái cô đã thấy, đã trải qua, tồn
tại ở xung quanh, trở thành tấm rèm bí ẩn trong cuộc sống hằng ngày.
Nhiều lần, lòng đầy xao xuyến, ngại ngần, cô ra bờ biển một mình ban
đêm, chờ đón bình minh và qua? thực có nhìn thấy con tàu với cánh buồm
đỏ thắm. Những giây phút ấy đối với cô thật là hạnh phúc. Nếu chúng ta
khó hoá thân vào những chuyện huyền thoại bao nhiêu thì cô lại khó thoát
ra ngoài quyền lực và sức quyến rũ của chúng bấy nhiêu.

Những lúc khác, khi nghĩ lại chuyện xảy ra, cô thật lòng ngạc nhiên với
chính mình, không tin những điều mình vừa tin nữa; cô mỉm cười từ giã
biển ca? và buồn rầu quay trở về thực tại. Giờ đây vừa ngồi khâu, cô gái
vừa nhớ lại ca? cuộc đời mình. Thật là nhiều điều tẻ nhạt và đơn giản.
Cảnh hai bố con sống cô độc đối với cô thật nặng nề. Nhưng trong cô đã
hình thành một thói quen rụt rè, một nếp hằn đau khổ, làm cho cô không
sao có thể vui lên được. Dân làng giễu cợt cô và nói: “Cô ta bị tâm
thần, dở người làm sao ấy!”Cô đã quen với những lời châm chọc đau đớn
ấy, nhiều lần cô phải chịu đựng những lời sỉ nhục mà sau đó ngực cô nhức
nhối như bị đánh. A-xôn là cô gái không được ưa chuộng ở làng
Ca-péc-na. Tuy vậy nhiều người mơ hồ cảm thấy một cách lạ lùng rằng hình
như cô được hưởng nhiều hơn người khác, có điều là bằng thứ ngôn ngữ
khác. Trai làng Ca-péc-na ưa thích loại phụ nữ chắc nịch, đẫy đà, da
bóng nhẫy, bắp chân trùng trục, cánh tay rắn chắc. Ở đây họ ve vãn nhau
bằng cách vỗ lưng, xô đẩy như ở chợ. Lối tỏ tình này hệt như tiếng rống
thô lỗ. A-xôn đối xử với cái môi trường quyết liệt này như những con
người có cuộc sống tinh thần tinh tế phải thích nghi với cái xã hội ma
quái. Thế là trong tiếng kèn lính đều đều, nỗi buồn ngọt ngào của cây vĩ
cầm không đủ sức lôi kéo đạo quân nghiêm nghị ra khỏi đội mgũ. Cô gái
không đếm xỉa đến những điều nói ở những dòng trên đây.

A-xôn miên man nghĩ về cuộc sống, đôi bàn tay nhỏ khéo léo nhanh nhẹn
khâu. Khi cắn chỉ, cô đưa mắt nhìn ra xa về phía trước. Nhưng, điều đó
không ngăn cản cô khâu thẳng hàng và chính xác như trên máy khâu. Dù
Lông-Gren chưa về, cô cũng không thấy lo sợ gì cho cha. Thời gian gần
đây, ông thường đi biển ban đêm để đánh cá hay đôi khi chỉ để hóng mát.

Cô gái không sợ, vì biết rằng sẽ không thể có gì nguy hiểm xẩy ra với
Lông-Gren được. Về phương diện này, A-xôn vẫn là cô gái bé nhỏ dạo nào
cầu nguyện theo cách riêng của mình, sáng sáng thỏ thẻ: “Chào đức Chúa
trời !”và tối tối lại: “Chào đức Chúa tạm biệt!”Cô bé nghĩ rằng chỉ cần
chào hỏi đức Chúa trời ngắn ngủi như vậy là cũng đủ đức Chúa trời che
chở cho cô thoát khỏi mọi điều bất hạnh. Cô đặt mình vào vị trí của đức
Chúa trời. Người luôn luôn bận bịu vì công việc của hàng triệu người, vì
vậy đối với những điều u ám hằng ngày của cuộc sống, theo ý cô, phải có
sự nhẫn nại tế nhị của một người khách đến chơi vào lúc nhà chủ đông
người, phải biết chờ đợi chủ và ăn ở tùy theo hoàn cảnh.

Khâu xong, A-xôn xếp đồ khâu lên chiếc bàn nhỏ ở góc nhà, cởi áo ngoài
rồi lên giường đi ngủ. Đèn đã tắt. Một lát sau, cô thấy mình chẳng buồn
ngủ chút nào. Tâm trí cô minh mẫn như thể đang là giữa ban ngày, thậm
chí ca? màn đêm xung quanh cũng trở thành không thật, ca? người, ca? tâm
trí cô lâng lâng, tỉnh táo. Tim cô đập nhanh như tiếng tích tắc của
đồng hồ bỏ túi, dường như trái tim đang đập ngay bên gối. A-xôn bực bội
trở mình luôn, khi thì tung chăn ra, khi lại kéo chăn trùm kín đầu. Cuối
cùng cô nghĩ được cách làm dễ ngủ, cô tưởng tượng ra mình đang ném
những hòn đá xuống nước lấp loáng ánh trăng và ngắm nhìn những gợn sóng
tròn loang ra bốn phía. Dường như chỉ chờ thế, giấc ngủ mới đến. Cô mơ
màng thấy hình bóng mẹ mỉm cười hiện ra ở đầu giường rồi thiếp đi trong
giấc mơ đẹp về một vườn cây hoa nở, nỗi buồn, sự say mê, ngững bài ca và
nhiều điều bí ẩn mà khi chợt tỉnh cô chỉ nhớ được làn nước xanh lấp
lánh chạy từ chân lên tim, mát lạnh, khoan khoái. Thấy điều kỳ lạ như
vậy, cô nán lại ít phút nữa nơi xứ sở tưởng tượng kia, rồi tỉnh hẳn và
ngồi dậy.

Nếu cô gái không thiếp đi được thì giấc mơ đã không đến. Một cảm giác
mới mẻ, đầy vui sướng, cảm giác khao khát làm một việc gì đó đã sưởi ấm
lòng cô. Cô nhìn quanh hệt như người ta thường nhìn ngôi nhà vừa dọn
đến. Một ngày mới đã bắt đầu, trời chưa sáng hẳn, nhưng mọi vật chung
quanh đã mờ mờ hiện ra. Phía dưới cửa sổ còn sẫm tối, nhưng phía trên đã
rạng sáng. Xa, rất xa ngoài khung cửa sổ lấp lánh ánh sao mai. Biết
rằng bây giờ không thể ngủ lại được nữa, A-xôn mặc áo vào rồi tới bên
cửa sổ mở cánh cửa ra. Bên ngoài vắng lặng như tờ, dườg như cảnh yên
lặng ấy chỉ vừa mới tới. Những khóm cây xanh xanh thấp thoáng, xa hơn
nữa là những hàng cây đang ngủ, phảng phất mùi đất và mùi không khí ngột
ngạt.

Vịn tay vào phía trên khung cửa, cô gái nhìn ra ngoài và mỉm cười. Bỗng
một cái gì đó, tựa một tiếng gọi xa xôi làm xao xuyến lòng cô, cô như
tỉnh dậy một lần nữa và chuyển từ thực tại đã rõ ràng sang một cái gì đó
hiển nhiên hơn và chắc chắn hơn. Từ giây phút đó, một cảm giác hân hoan
tràn ngập lòng cô. Cũng như khi nghe người khác nói, chúng ta hiểu
nhưng nếu nhắc lại những lời ấy thì chúng ta lại hiểu thêm với một ý
nghĩa mới hơn, khác hơn. Tâm trạng A-xôn lúc ấy tương tự như thế.

Cô lấy chiếc khăn lụa mỏng tuy đã cũ nhưng rất hợp với gương mặt, trùm
lên đầu, buộc dưới cằm rồi khoá cửa, chạy chân đất ra đường. Xung quanh
vắng vẻ, trống trải, nhưng cô cảm thấy mình như là ca? một dàn nhạc mà
mọi người có thể nghe được. Vạn vật trở nên thân thiết với cô, làm cô
vui sướng. Lớp đất bụi ấm áp mơn man bàn chân cô, cô thở mạnh, khoan
khoái. Trong ánh sáng buổi sớm mờ mờ, những mái nhà, những đám mây nom
đen sẫm, những bờ rào, bụi cây, vườn rau và con đường mờ mờ ẩn hiện đang
thiu thiu ngủ. Vẫn là những cảnh vật ấy nhưng giờ đây trông khác hẳn
lúc ban ngày. Tất ca? dường như đang ngủ mà cặp mắt vẫn mở, vụng trộm
ngắm nhìn cô gái đi qua.

Cô gái mỗi lúc một rảo bước nhanh hơn, vội vã rời khỏi làng. Bên ngoài
làng Ca-péc-na là một đồng cỏ trải rộng, tiếp đấy là vùng sườn đồi ven
biển mọc đầy những hàng bụi cây hồ đào, cây dẻ. Khi đã đi hết đường cái,
rẽ sang con đường mìn hẻo lánh, A-xôn bỗng thấy quẩn bên chân cô con
chó lông đen ức trắng, đôi mắt như biết nói. Con chó nhận ra A-xôn, nó
khẽ kêu lên, uốn éo cái mình. Nó đi bên cạnh cô gái, như thoa? thuận với
cô về một điều ca? hai đều thầm hiểu. A-xôn nhìn vào đôi mắt hồ hởi của
nó và tin chắc rằng nó có thể nói thành lời nếu không vì những nguyên
nhân bí ẩn nào làm nó phải im lặng. Nhìn thấy cô bạn đường mỉm cười, con
chó ra vẻ thích chí, ve vẩy đuôi rồi chạy lên phía trước một quãng.
Nhưng bất chợt nó thản nhiên ngồi xuống, lấy chân trước gãi gãi vào bên
tai vừa bị con bọ nào cắn, rồi sau đó quay trở lại phía làng.

A-xôn đi vào một bãi cỏ cao đầy sương, đôi tay vuốt nhẹ trên những chùm
hoa dại, miệng mỉm cười. Cô chăm chú nhìn vào gương mặt độc đáo của
những bông hoa, vào những thân cành mảnh dẻ đan vào nhau, cô dường như
nhận ra những dáng vẻ khác nhau của con người - những điệu bộ, sự cố
gắng, những cử động, những đường nét và những cái nhìn. Lúc này cô sẽ
không ngạc nhiên nếu như gặp đám rước của bầy chuột đồng, vũ hội của đám
chuột vàng, hay trò tiêu khiển thô lỗ của con nhím đi nạt nộ chú lùn
đang ngủ. Và đúng là có một chú nhím lông xám chạy ra trên con đường mòn
trước mặt A-xôn, giận dữ kêu lên “phúc... phúc... ”như người đánh xe
làu bàu với khách qua đường. A-xôn nói với tất ca? những gì cô gặp và
thông cảm. “Chào anh bạn bị đau”, - cô nói với cây lưỡi đòng thân bị sâu
khoét thành lỗ rộng. “Về nhà mà ngồi nhé”, - cô nói với bụi cây nhỏ mọc
lên giữa đường mòn, khẽ móc vào nếp váy cô. Một con cánh cam to đậu
trên đài hoa chuông làm ca? cành hoa trĩu xuống mà nó vẫn cố trèo lên.
A-xôn nói với cành hoa: “Hất ông khách béo mập ấy xuống đi, cậu ạ”. Và
con cánh cam không bám được vào hoa nữa, nó xoè cánh vù bay sang bên
cạnh. Lòng đầy rộn ràng, xôn xao, cô đã đến bên sườn đồi thoai thoải. ẩn
mình giữa những lùm cây che khuất bãi cỏ, cô cảm thấy mình rơi vào một
nơi xung quanh toàn là bè bạn thân thiết - những hàng cây biết trò
chuyện với cô bằng thứ giọng trầm trầm.

Đó là các cây cổ thụ to lớn, xen lẫn cây dẻ, cây kim ngân. Cành cây sà
xuống, chạm vào tán lá của các bụi thấp. Trên những cành lá sum suê hiện
ra những chùm hoa trắng ngần toa? hương thơm ngào ngạt pha lẫn mùi
hương của nhựa thông và sương sớm. Con đường mòn nhỏ đầy những rễ cây ăn
nổi lúc võng xuống lúc thoai thoải dốc lên cao. A-xôn cảm thấy mình như
đang ở nhà, cô lắc nhẹ những cành lá xoà thấp, miệng tươi cười chào hỏi
từng cái cây như chào người thật. Cô vừa đi vừa nói: “Đây một anh bạn,
còn đây lại một anh bạn khác, các bạn của tôi đông quá! Tôi đang đi,
đang vội đây, các bạn để tôi đi nhé. Tôi nhận ra các bạn, tôi nhớ và yêu
quý tất ca? các bạn”. “Các bạn”trang trọng vuốt ve cô, cành lá kẽo kẹt
đáp lại cô. Chân lấm đất, cô bước ra bờ vách giáp biển, đứng ngay sát
mép, thở gấp vì đi nhanh. Một niềm tin sâu xa, mãnh liệt bỗng tràn ngập
lòng cô. Cô đưa mắt nhìn ra phía chân trời. Sóng biển rì rào nhẹ vỗ vào
bờ khiến cô quay trở lại, kiêu hãnh vì một niềm phấn hứng thanh tao. Lúc
ấy, biển được viền bằng một sợi chỉ vàng dọc theo đường chân trời vẫn
còn đang ngủ. Chỉ có nước trong vụng dưới bờ vách là đang nhịp nhàng
dâng lên, hạ xuống. Gần bờ, màu thép của đại dương đang ngủ đã chuyển
sang xanh thẫm và đen. Sau sợi chỉ vàng đó, bầu trời bừng sáng, toa? ánh
hào quang như một chiếc quạt khổng lồ. Mây trắng ửng hồng. Lấp lánh
trong mây là những màu sắc mảnh mai, tuyệt đẹp. Xa xa, một vệt trắng như
tuyết rung rinh trải dài trên nền tối sẫm. Bọt nước gợn sáng. Một vết
nứt đỏ rực bừng lên giữa sợi chỉ vàng, hắt xuống đại dương một làn nước
lăn tăn đỏ thắm, lan dần đến chân A-xôn.

Cô gái ngồi xuống, co chân lại, tay ôm gối. Cô chăm chú nhìn biển, nhìn
về phía chân trời với cặp mắt mở to của trẻ thơ, không còn chút gì là
của người lớn. Những gì cô đã nôn nao chờ đợi từ bao lâu nay dường như
đang diễn ra ở nơi xa tít tắp ngoài kia. Cô nhìn thấy giữa mặt biển mênh
mông kia như có một ngọn đồi ngầm dưới nước, những loài cây leo vươn
lên mặt nước để lộ những bông hoa lạ toa? sáng giữa đám lá tròn mọc từ
thân cây. Những cành lá phía trên lấp loáng trên mặt biển khơi. Với
những ai không phải là A-xôn thì đó chỉ là những làn sóng xôn xao, lấp
loáng.

Từ giữa đám cây kỳ lạ ấy, một con tàu hiện lên rồi dừng lại ngay giữa
vừng đông. Từ xa, trông nó hệt như một đám mây. Con tàu toa? niềm vui,
bơi đi, hắt lên ánh đỏ như rượu vang, như hoa hồng, như máu, như làn
môi, như nhung thắm và như ngọn lửa đỏ tươi. Con tàu đi thẳng về phía
A-xôn. Sóng nước rẽ ra dưới mũi tàu, bọt tung trắng xoá.Cô gái đứng dậy
áp tay lên ngực, mặt biển chỉ còn lăn tăn gợn sóng. Mặt trời hiện lên,
ánh ban mai rực rỡ xua đi tấm màn phủ che vạn vật đang yên nghỉ thư thái
trên mặt đất còn ngái ngủ.

Cô gái thở một hơi thật sâu, rồi quay nhìn xung quanh. Tiếng nhạc đã
tắt, nhưng A-xôn còn bàng hoàng trong dư âm của dàn đồng ca. Cảm giác ấy
dần dần mất đi rồi biến thành ký ức, và cuối cùng chỉ còn là sự mỏi mệt
rã rời. Cô nằm xuống bãi cỏ, nhắm mắt lại, khoan khoái thiếp đi trong
một giấc ngủ mê mệt, không mơ màng, không mộng mị.

Cô tỉnh dậy vì có con ruồi bò trên bàn chân. Cô co chân lại và chợt
tỉnh. Cô ngồi dậy cặp lại mái tóc rối, và vì thế mà cảm thấy trên ngón
tay út mình có vật gì vương vướng. Cô tưởng có cọng cỏ nào mắc vào kẽ
tay nên duỗi thẳng ngón tay ra cho nó rơi, nhưng vẫn thấy vướng. Cô bèn
đưa tay lên nhìn và liền kinh ngạc đứng bật dậy: trên ngón tay cô là
chiếc nhẫn ngọc lấp lánh - chiếc nhẫn của Grây.

Chiếc nhẫn nằm trên tay mà cô có cảm giác như đó không phải tay mình mà
là của ai khác. “ Ai đùa thế này?-cô kêu lên. Lẽ nào mình đang ngủ?Hay
là mình nhặt được ở đâu rồi quên khuấy đỉ”. Tay trái cầm lấy bàn tay
phải có nhẫn, cô ngơ ngác nhìn xung quanh như muốn gạn hỏi biển ca? và
những lùm cây xanh, nhưng không có tiếng nào đáp lại, không có ai nấp
trong bụi rậm. Ngoài biển xanh lấp loáng ánh mặt trời cũng không có dấu
hiệu nào. Gương mặt cô đỏ ửng lên. Trái tim đã mách bảo cô là “có”.
Không có lời giải đáp nào cho sự việc vừa xảy ra, nhưng cô đã tìm được
lời giải đáp bằng cảm giác lạ lùng mà không cần phải viện tới lý lẽ nào;
cô thấy chiếc nhẫn trở nên gần gũi, thân thiết đối với mình. Cô run rẩy
tháo chiếc nhẫn ra, để trong lòng bàn tay khum lại mà nhìn ngắm với cảm
giác ngây ngất, say sưa, rộn ràng, giục giã, với niềm tin gần như bí ẩn
của tuổi trẻ. Thế rồi cô để chiếc nhẫn vào trong áo lót, úp mặt vào
lòng bàn tay, một nụ cười không sao ngăn lại được nở trên môi cô. Cô cúi
đầu chậm rãi bước về làng.

Vậy là Grây và A-xôn đã tìm thấy nhau một cách tình cờ như những người
biết đọc, biết viết thường nói - tìm được nhau vào một sớm mùa hè đầy
những điều không sao tránh khỏi.
Về Đầu Trang Go down
https://duonghoalac-hoabinh.forumvi.com
Admin
Admin
Admin
Admin

Tổng số bài gửi : 1754
Điểm : 6794
Ngày tham gia : 22/12/2010
Tuổi : 39
Đến từ : Hà Nội
Level: 39 Kinh nghiệm: 1754%
Sinh mệnh: 1754/100
Pháp lực: 39/100

NGƯỜI ĐIỀU HÀNH
Phù hiệu: Cánh buồm đỏ thắm POLLICE

Cánh buồm đỏ thắm Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Cánh buồm đỏ thắm   Cánh buồm đỏ thắm Icon_minitimeTue Mar 15, 2011 7:54 pm

Chương 5: Chuẩn bị chiến đấu

Grây bước lên boong tàu “Bí mật”. Anh đứng im một lúc, đưa
tay vuốt tóc từ đằng sau ra trước trán một thói quen anh thường làm mỗi
khi trong lòng hết sức bối rối. Vẻ lơ đãng hiện lên trên gương mặt anh
với nụ cười ngây ngô của người mộng du. Người trợ lý của anh Pan-ten lúc
ấy vừa đi qua, tay cầm đĩa cá rán. Nhận thấy vẻ mặt lạ lùng của thuyền
trưởng, Pan-ten rụt rè hỏi:

- Anh bị ngã ở đâu phải không. Thưa thuyền trưởng? Anh đi đâu về thế?
Gặp chuyện gì vậy? Thật ra thì đó hoàn toàn là chuyện của anh thôi. Có
một vị thầu khoán thuê tàu chúng ta chở một món hàng hời lắm, lại còn
hứa có tiền thưởng nữa. à mà anh làm sao thế?...

- Cảm ơn anh, - Grây vừa đáp vừa thở mạnh như người vừa được cởi trói. -
Chính là tôi đang cần được nghe những lời nói đơn giản và thông minh
của anh. Đó như là một thứ nước lạnh. Pan-ten, anh hãy báo cho mọi người
biết rằng hôm nay chúng ta sẽ nhổ neo và cho tàu ghé vào cửa sông
Li-li-a-na cách đây mười hải lý. Dòng sông này có nhiều doi đất ngầm rất
nông. Muốn vào vùng đó chỉ có thể đi từ ngoài biển đến. Anh đi lấy bản
đồ đi. Không cần đem theo hoa tiêu. Có thế thôi... Món hàng chở hời ấy
đối với tôi cũng chẳng có ý nghĩa gì. Anh có thể nói lại với ông thầu
khoán như thế. Tôi đi lên phố bây giờ đây và sẽ ở lại đó đến tối.

- Có chuyện gì xảy ra vậy?

- Hoàn toàn không có gì cả, Pan-ten ạ. Tôi muốn anh lưu ý đến mong muốn
của tôi là không phải nghe hỏi thêm điều gì. Khi có dịp, tôi sẽ nói cho
các anh nghe chuyện là thế nào. Anh hãy nói với các thuỷ thủ rằng tàu
cần được sửa chữa mà xưởng đóng tàu ở đây thì đang bận.

- Rõ! - Pan-ten đáp lại như máy khi Grây đã quay lưng đi. - Mọi mệnh lệnh của anh sẽ được thi hành.

Mặc dù các yêu cầu của thuyền trưởng rất rõ ràng, người trợ lý vẫn tròn
xoe mắt ngạc nhiên và vội vã cầm đĩa cá rán quay về buồng của mình,
miệng lẩm bẩm: “Này, Pan-ten, mày bị lúng túng rồi đấy. Có phải thuyền
trưởng định thử đi buôn lậu một chuyến không” Chẳng lẽ con tàu này lại
sắp treo cờ đen của bọn cướp biển sao?”. Đến đây Pan-ten đành chịu bó
tay trước những dự đoán quá kinh khủng. Trong khi Pan-ten đang ngấu
nghiến ăn món cá thì Grây xuống buồng mình lấy tiền, đi thuyền qua vịnh
nhỏ rồi đến khu buôn bán của thị trấn Li-xơ.

Lúc này anh hành động bình thản mà cương quyết, anh biết hết những gì sẽ
xảy ra trên con đường kỳ lạ sắp tới. Mỗi hành động, mỗi ý nghĩ đều sưởi
ấm anh bằng khoái cảm tinh tế. Dự định của anh hình thành trong nháy
mắt và rất cụ thể. Đối với cuộc đời anh, dự định ấy khác nào những nhát
dao sắc sảo, chính xác cuối cùng của nhà điêu khắc mà sau đó khối đá hoa
cương bỗng biến thành một pho tượng tuyệt vời.

Grây đi đến ba cửa hiệu, anh rất coi trọng việc chọn được loại hàng thật
vừa ý ca? về màu sắc lẫn phẩm chất. Ở hai cửa hiệu đầu, người ta đưa
cho Grây xem thứ hoa màu sặc sỡ thích hợp với loại thị hiếu dễ dãi. Ở
của hiệu thứ ba, anh thấy nhiều loại vải đẹp khác nhau. Viên chủ hiệu
tíu tít, hớn hở lấy ra các loại vải bị ế, còn Grây thì nghiêm trang như
một nhà giải phẫu. Anh kiên nhẫn chọn các súc vải, xếp lại một bên rồi
lại giở xem nhiều loại vải màu đỏ đến nỗi ca? quầy hàng rực hồng lên.
ánh hồng in lên tay, lên mặt anh, hắt xuống ca? mũi giày. Đứng giữa
những dải lụa bồng bềnh, Grây phân biệt rõ cãc màu: hồng nhạt, hồng đậm,
màu hoa anh đào, màu đỏ da cam, màu huyết dụ. Ở đây có đủ các loại màu
na ná nhau nhưng thực ra lại khác nhau, đại loại như những từ đồng
nghĩa: “kỳ diệu”, “tuyệt diệu”, “tuyệt đẹp”, “hảo hạng”. Những sắc màu
ấy biểu lộ những điều mà lời nói không thể nào diễn ta? nổi. Nhưng
thuyền trưởng Grây vẫn chưa tìm được thứ vải màu ưng ý. Viên chủ hiệu
đưa ra không ít loại vải đẹp nhưng vẫn chưa làm Grây hài hòng. Cuối cùng
một thứ lụa làm khách hàng sững sờ chú ý. Anh ngồi xuống chiếc ghế bành
đặt gần cửa sổ, kéo dải lụa phủ lên đầu gối mà ngắm nhìn không nhúc
nhích, mồm ngậm tẩu thuốc đang cháy dở.

Thứ lụa đó có màu rực như nắng hồng buổi sớm, toa? ra niềm vui rộn ràng,
cao quý, kiêu hãnh. Đó chính là thứ màu mà Grây cần tìm. Nó không có
những sắc thái pha tạp của màu lửa, màu hoa anh túc, không có những hàm ý
của màu hoa vi- Ô-lét hoặc màu hoa cà, cũng không có sắc xanh hay đen
có thể làm cho ta nghi ngờ. Nó chỉ thắm hồng lên như một nụ cười duyên
phản ánh tâm hồn. Grây say sưa ngắm thứ lụa tuyệt vời đó đến nỗi quên
ca? viên chủ hiệu đang đứng chờ sau lưng với vẻ chăm chú của con chó săn
vừa vớ được mồi ngon. Chờ một lúc, viên chủ hiệu sốt ruột nhắc khéo
Grây bằng cách xé xoạt một mảnh lụa nhỏ.

- Thôi, không cần cho xem hàng mẫu nữa, - Grây đứng dậy nói. - Tôi sẽ lấy thứ lụa này.

- Ông lấy ca? súc vải này chứ? - viên chủ hiệu hỏi, giọng lộ vẻ nghi
ngờ. Nhưng Grây im lặng nhìn vào trán y, điều này làm cho y trở nên mạnh
dạn hơn. - vậy ông lấy bao nhiêu mét?

Grây gật đầu ra hiệu cho y chờ một lát. anh lấy bút chì ra tính toán số lượng vải cần đến.

- Hai nghìn mét, - Grây nói, - mắt hồ nghi nhìn lên quầy hàng. - Phải rồi, không quá hai nghìn mét.

- Hai? - viên chủ hiệu giật thót người, bật hỏi lại. - Hai nghìn ư? Hai
nghìn mét? Xin mời ông ngồi, thưa thuyền trưởng. Ông có muốn xem thêm
hàng mẫu nữa không ạ? Xin tùy ông. Diêm đây ạ, còn đây là thuốc lá
thượng hảo hạng, xin mời ông dùng thử. Hai nghìn... , mỗi mét giá... -
viên chủ hiệu xướng giá tiền chẳng lấy gì làm thật thà cho lắm. Nhưng
Grây cũng chẳng buồn mặc ca? với y, anh đang hài lòng với thứ vải mình
vừa chọn được, - viên chủ hiệu tiếp tục nói. - Không chê vào đâu được,
chỉ có bản hiệu đây mới có thứ hàng đó đấy ạ. Để cho y tỏ hết sự hân
hoan xong, Grây thoa? thuận với y về phương thức lấy hàng. Anh thanh
toán với y mọi khoản phí tổn rồi cáo từ. Viên chủ hiệu tiễn anh với vẻ
trịnh trọng như tiễn một hoàng đế Trung hoa. Vào lúc ấy, bên kia đường
gần cửa hiệu vừa rồi, có một nhạc công lang thang đang bắt cây đàn vi-
Ô-lông-xen của mình phát ra âm thanh buồn buồn tha thiết. Bạn anh, một
người thổi sáo, cũng đang hoà cùng anh bài ca giản dị, du dương. Âm điệu
bản đàn tản ra trong cái nóng oi bức của ngày hè và vọng đến tai Grây.
Anh hiểu ngay rằng mình phải làm điều gì. Nói chung là vào những ngày ấy
anh đang sống trong trạng thái tinh thần phấn chấn, trạng thái cho phép
anh nhận ra mọi hàm ý, mọi điều mách bảo của thực tiễn. Anh nghe thấy
những âm thanh bị át đi trong tiếng xe cộ qua lại ồn ào, và theo tính
cách riêng của anh, tiếng nhạc ấy gợi cho anh bao ấn tượng và suy nghĩ
quan trọng. Anh cảm thấy những điều anh nghĩ sẽ diễn ra tốt đẹp. Đi qua
một ngõ hẹp, anh bước vào cổng ngôi nhà có mấy nhạc công đang biểu diễn.
Lúc này, họ đã sắp đi nơi khác. Người thổi sáo, dáng cao cao, đang nga?
mũ ngượng ngùng chào cám ơn những ai vừa ném tiền xuống qua cửa sổ.
Người kéo vi- Ô-lông-xen để đàn dựa vào khuỷu tay, một tay đưa lên lau
mồ hôi trán, đang chờ bạn.

- Trời, anh Xim-me đấy à! - Grây nói với anh ta, nhận ra đó là người
thường kéo vi- Ô-lông rất hay, tối tối vẫn mua vui cho đám thuỷ thủ -
khách hàng của quán “Tiền dành cho rượu”trên bến cảng. Sao anh lại bỏ
đàn vi- Ô-lông?

- Thưa thuyền trưởng kính mến, - Xim-me đáp lại với giọng đầy hãnh diện,
- tôi có thể chơi được mọi thứ đàn. Hồi còn trẻ tôi làm chân nhạc công
hề trong rạp xiếc. Bây giờ thôi thèm được làm nghệ thuật một cách tử tế,
và tôi buồn rầu nhận thấy rằng tôi đã tự huỷ hoại tài năng của mình.
Bởi vậy bây giờ do chút tham lam muộn mằn, tôi yêu một lúc hai thứ đàn:
đàn vi- Ô-lông và đàn vi- Ô-lông-xen. Ban ngày thì chơi đàn vi-
Ô-lông-xen, buổi tối thì chơi vi- Ô-lông, cũng thể như tôi than khóc cho
tài năng đã chết. Thuyền trưởng có định thết anh em bữa rượu nào không?
Vi- Ô-lông-xen là cô Các-men của tôi. Còn vi- Ô-lông là...

- Là A-xôn, - Grây nói tiếp.

Xim-me không nghe rõ lời Grây.

- Phải rồi, - Xim-me gật gù, - xô-lô bằng kèn hơi hay đánh chũm choẹ một
mình là một việc hoàn toàn khác. Nhưng mà chuyện đó thì liên quan gì
đến tôi kia chứ? Cứ để kệ cho các anh hề trong nghệ thuật muốn làm gì
thì làm. Còn tôi, tôi bao giờ cũng tin rằng các nàng tiên đã chọn vi-
Ô-lông và vi- Ô-lông-xen làm chỗ nghỉ.

- Thế trong cây sáo của tớ thì thần nào nghỉ hở ông bạn? - người thổi
sáo vừa tiến lại gần vừa hỏi. Đó là một chàng trai cao lớn, có đôi mắt
giống mắt cừu, màu xanh, và bộ râu vàng. - Nào tra? lời đi.

- Tùy theo mức độ mà cậu uống từ sáng tới giờ. Trong cây sáo của cậu khi
thì có **** muông, khi thì lại chỉ toàn hơi men. Thưa thuyền trưởng,
đây là anh bạn Đu-xơ của tôi. Tôi đã nhiều lần kể cho anh ta nghe về
thuyền trưởng, một người tiêu tiền như nước mỗi khi uống rượu. Và thế là
anh ta cũng mê thuyền trưởng lắm đấy.

- Phải đấy, - Đu-xơ nói, - tôi rất thích những cử chỉ hào hiệp. Nhưng mà
tôi là kẻ khôn vặt đấy, đừng có tin vào những lời nịnh bợ của tôi.

- Thế này, - Grây vừa nói vừa cười, - tôi chỉ còn rất ít thời gian mà
việc này thì lại cần gấp. Tôi sẽ tạo cho các bạn một cơ hội kiếm tiền
kha khá đấy. Các bạn hãy tập hợp một dàn nhạc nhưng đừng có mời những
anh chàng ăn vận chải chuốt có vẻ mặt trang nghiêm khô khan như kẻ không
hồn, những kẻ khi chơi đàn thì quên hết phần hồn của âm nhạc, chỉ làm
nơi biểu diễn trở nên buồn tẻ bằng những tiếng ồn quái gở. Hãy tập hợp
những ai biết làm rung động tâm hồn mộc mạc của những chị nấu bếp và
những anh bồi. Hãy tìm những nhạc công lang thang như các bạn. Biển ca?
và tình yêu không chịu nổi những kẻ cầu kỳ. Tôi sẵn sàng ngồi uống rượu
với các bạn bây giờ, không phải chỉ một vài chai, nhưng tôi phải đi đằng
này ngay. Tôi bận nhiều việc lắm. Các bạn hãy cầm món tiền này và hãy
uống rượu mừng cho chữ “A”! Nếu các bạn đồng ý với đề nghị của tôi thì
buổi tối hãy kéo nhau xuống con tàu Bí mật của tôi, hiện đang đậu ở cách
cái đập trước mặt không xa.

- Xin vâng!- Xim-me reo lên. Anh biết rằng Grây bao giờ cũng tra? công
hậu hĩ như một ông vuạ- Đu-xơ, cậu hãy cúi chào và nói đồng ý, hãy tung
mũ lên mà mừng đi! Thuyền trưởng Grây muốn cưới vợ đấy!

- Phải rồi, - Grây bình thản đáp. - Mọi chi tiết tôi sẽ nói thêm khi chúng ta ở trên tàu. Còn các bạn...

- Uống rượu mừng cho chữ “A”! - Đu-xơ hích khuỷu tay vào Xim-me, nháy
mắt với Grây. - Nhưng... trong bảng chữ cái... còn nhiều vần nữa cơ mà!
Thuyền trưởng cố gắng cho anh em uống rượu đến vần cuối cùng...

Grây đưa cho hai người một món tiền. Hai nhạc công đi khỏi. Lúc ấy Grây
bèn ghé vào một cửa hiệu, tra? một món tiền lớn để thuê làm gấp cho anh
một việc bí mật trong thời gian sáu ngày. Khi Grây trở về tàu của mình
thì người của cửa hiệu cũng đã tới đó. Đến tối, lụa được chất lên tàu.
Năm người thợ làm buồm mà Grây thuê đã ngồi bên đám thuỷ thủ. Lê-chi-ca
vẫn chưa về, dàn nhạc chưa tới. Trong khi chờ đợi bọn họ, Grây đến nói
chuyện với Pan-ten.

Cần để ý rằng trong mấy năm liền, Grây đã đi biển với một số thuỷ thủ
nhất định. Dạo đầu họ rất ngạc nhiên trước những quyết định thất thường
của Grây, khi thì cho tàu chạy những chuyến bất ngờ, khi thì cho tàu
dừng lại - có khi hàng tháng - Ở những nơi vắng vẻ nhất, ít tính chất
buôn bán nhất. Nhưng rồi dần dần họ quen với tính nết đó của Grây. Nhiều
lần anh cho tàu chạy không, từ chối nhận chở hàng tra? giá hời vì thứ
hàng đó anh không thích. Không ai thuyết phục được anh nhận chở xà
phòng, đinh, phụ tùng máy móc, hay nói gọn lại là những gì chất đống
trong khoang tàu và chỉ gợi những cảm giác đơn điệu về sự cần thiết buồn
tẻ. Nhưng anh rất sẵn sàng chở hoa quả, đồ sứ, súc vật, hương liệu,
chè, thuốc lá, cà phê, vải lụa, những giống cây quý hiếm như dừa, cọ,
đàn hương. Những thứ hàng đó thích hợp với trí tưởng tượng của anh,
thường tạo ra khung cảnh thú vị. Vì vậy, không có gì lạ khi những thuỷ
thủ của con tàu Bí mật, hấp thụ tinh thần độc đáo đó, nhìn những con tàu
chỉ chuyên lo kiếm lời bằng cặp mắt khinh khi. Tuy vậy, đến lần này,
Grây vẫn đọc được nhiều câu hỏi trên nét mặt các thuỷ thủ. Ca? đến người
thuỷ thủ ngu dốt nhất cũng biết rất rõ rằng hoàn toàn không cần phải
tiến hành chữa tàu ở một vùng cửa sông có rừng cây như vậy.

Tất nhiên là Pan-ten đã thông báo với họ những mệnh lệnh của Grây. Khi
thuyền trưởng đến chỗ anh thì anh đang hút tới điếu xì-gà thứ sáu, đi đi
lại lại trong buồng, mụ người vì khói thuốc và vấp ca? vào ghế. Trời đã
về chiều; một dải ánh sáng màu vàng xuyên qua cánh cửa sổ để mở làm
chiếc lưỡi trai ở mũ thuyền trưởng loé sáng lên.

- Tất ca? đã chuẩn bị xong, thưa thuyền trưởng,- Pan-ten nói, vẻ không vui. - Nếu anh muốn, thì có thể cho nhổ neo ngay.

- Pan-ten ạ, đáng lẽ anh phải hiểu tôi hơn một chút, - Grây nhẹ nhàng
nói.- Không có gì bí mật trong chuyện tôi đang làm. Ngay sau khi chúng
ta tha? neo xuống lòng sông Li-li-a-na, tôi sẽ kể hết mọi chuyện. Và lúc
ấy anh sẽ không phải tốn nhiều diêm thế để hút thứ xì-gà tồi ấy. Thôi,
anh cho kéo neo lên thôi.

Pan-ten hơi lúng túng nhếch mép cười, gãi gãi lông mày.

- Tất nhiên là như vậy, - anh nói. - Mà tôi cũng có làm sao đâu.

Khi Pan-ten đã đi rồi, Grây ngồi lại một lúc, nhìn chăm chăm về phía cửa
hé mở, rồi anh trở về phòng mình. Ở đây, lúc thì anh ngồi. Lúc nga?
lưng xuống giường, lúc lắng nghe tiếng dây xích buộc neo đang kéo lên
kêu loảng xoảng. Anh sửa soạn đi lên boong tàu nhưng rồi lại ngập ngừng
nghĩ ngợi và quay lại bên bàn, lấy đầu ngón tay vạch một đường thẳng lên
mặt khăn trải bàn. Tiếng đập mạnh vào cửa làm anh chợt tỉnh, anh vặn
qua? đấm cửa, và Lê-chi-ca vào. Anh thuỷ thủ thở hổn hển, đứng sững lại
với vẻ mặt của người vừa phi báo tin hoãn cuộc hành hình.

- “Hãy bay đi ngay, Lê-chi-ca!” - tôi tự bảo như vậy, - ngay từ lúc còn
đứng ở chỗ cái đập, nhìn thấy thuỷ thủ tàu ta đang hò nhau kéo neo lên.
Mắt tôi tinh như mắt **** ưng ấy. Thê là tôi vội “bay” xuống thuyền, tôi
thở hồng hộc vào người chèo thuyền đến nỗi ông ta toát ca? mồ hôi vì lo
quá. Thưa thuyền trưởng, chẳng lẽ anh muốn quẳng tôi lại trên bờ sao?

- Lê-chi-ca, - Grây vừa nói vừa nhìn kỹ vào đôi mắt đỏ ngầu của người
thuỷ thủ, - tôi chờ anh gần hết buổi sáng rồi. Anh đã giội nước lạnh lên
gáy cho tỉnh rượu chưa đấy?

- Giội rồi. Không nhiều bằng số rượu đã uống vào bụng, nhưng đã giội. Mọi việc đã làm xong.

- Anh nói xem nào.

- Không cần phải nói đâu, thưa thuyền trưởng. Đây, tất ca? tôi đã viết
vào đây rồi. Anh cầm lấy mà xem. Tôi đã cố lắm đấy. Tôi đi đây.

- Đi đâu?

- Nhìn mắt anh, tôi cũng biết anh đang trách tôi còn giội ít nước lạnh lên gáy quá.

Anh ta quay đi rồi ra khỏi phòng với dáng đi lạ lẫm của người mù. Grây
lật tờ giấy ra, những dòng chữ viết bằng bút chì nguệch ngoạc, xiêu vẹo.
Lê-chi-ca viết thế này:

“ Theo lệnh đã giao, sau lúc năm giờ tôi đi ra ngoài đường làng. Nhà cô
ấy có mái màu xám, có hai cửa sổ mỗi bên, cạnh nhà có vườn rau. Cô gái
đi ra khỏi nhà hai lần: một lần đi lấy nước, một lần đi lấy vỏ cây đun
bếp. đến lúc trời tối, tôi có ghé mắt vào cửa sổ nhưng không nhìn thấy
gì vì cửa sổ có rèm che”.

Sau đó, Lê-chi-ca ghi tiếp vài câu về đặc điểm gia đình, chắc là thu
lượm được qua câu chuyện bên bàn rượu, bởi vì bất ngờ cuối mảnh giấy có
câu: “Tôi đã phải chi một ít tiền của mình”.

Nhưng cốt lõi của những điều Lê-chi-ca viết lại chỉ nói lên những cái
chúng ta đã biết qua chương đầu cuốn sách này. Grây nhét mảnh giấy vào
ngăn bàn, huýt sáo gọi người trực nhật lại và bảo anh ta đi tìm Pan-ten.
Nhưng người đến không phải là trợ lý của anh mà lại là thuỷ thủ trưởng
át-vút, vừa đi vừa kéo ống tay áo xuống.

Anh ta nói:

- Chúng tôi đã nhổ neo thì Pan-ten bảo đến gặp anh để xin ý kiến.
Pan-ten đang bận: anh ta đang phải đối phó với một đám người mang kèn
trống và vi- Ô-lông. Anh gọi họ lên tàu à? Pan-ten mời anh đến ngay, một
mình anh ta không biết xoay xở thế nào.

- Phải đấy, át-vút ạ, - Grây nói. - Đúng là tôi đã gọi các nhạc công ấy
đấy. Anh hãy bảo họ tạm vào buồng thuỷ thủ đã, rồi sẽ thu xếp chỗ cho họ
sau. át-vút, anh hãy nói với họ và anh em thuỷ thủ rằng mười lăm phút
nữa, tôi sẽ lên boong. Cứ tập hợp trước ở đấy đi, anh và Pan-ten chắc sẽ
làm theo lời tôi. át-vút rướn lông mày bên trái lên, đứng nghiêng người
ở chỗ cửa ra vào rồi đi khỏi. Grây úp mặt vào lòng bàn tay hơn mười
phút liền. Anh không chuẩn bị gì mà cũng không dự tính điều gì, anh chỉ
muốn im lặng suy tưởng. Trong lúc ấy, mọi người sốt ruột chờ anh với vẻ
tò mò, phỏng đoán. Anh bước ra và nhìn thấy trên gương mặt họ vẻ chờ đợi
những điều gì thật khó tin. Nhưng vì anh coi mọi chuyện đang xảy ra là
hoàn toàn bình thường, nên anh cảm hấy hơi bực mình khi những người khác
lại băn khoăn như vậy.

- Không có gì đặc biệt, các bạn ạ, - Grây nói và ngồi xuống bậc thang. -
Chúng ta sẽ tha? neo ở vùng cửa sông cho đến khi thay hết vải buồm. Các
bạn đã thấy người ta đem lụa đỏ lên tàu chúng ta đấy. Dưới sự chỉ dẫn
của ông Bơ-len, chúng ta sẽ làm những cánh buồm mới cho tàu Bí mật. Sau
đó chúng ta sẽ lại nhổ neo, - đi đâu... thì tôi chưa nói, nhưng dù sao
cũng không xa đây lắm. Tôi sẽ cho tàu đến chỗ vợ tôi. Cô ta chưa phải là
vợ tôi, nhưng sẽ là vợ tôi. Tôi cần có con tàu với cánh buồm đỏ thắm để
cho cô có thể nhận ra chúng ta từ đằng xa, như đã thoa? thuận trước với
cô ấy. Đấy, tất ca? là như thế. Các bạn thấy chưa, ở đây chẳng có gì là
bí ẩn ca?. Thôi, không cần phải nói thêm gì về chuyện đó nữa.

- Phải rồi, - át-vút nói. Qua vẻ mặt tươi cười của các thuỷ thủ, anh
nhận thấy họ bối rối một cách thú vị và không dám nói gì. - Thưa thuyền
trưởng, hoá ra chuyện là như vậy... Tất nhiên chúng tôi không phải là
người xét đoán về chuyện đó. Anh muốn thế nào thì sẽ như thế. Xin chúc
mừng anh.

- Cám ơn anh!

Grây bắt chặt tay người thuỷ thủ trưởng, anh này bóp lại mạnh đến nỗi
Grây phải rút tay ra. Tiếp đó các thuỷ thủ lần lượt đi qua trước mặt
Grây, nhìn anh với cái nhìn ấm áp rụt rè, ấp úng chúc mừng anh. Không ai
hò hét, làm ồn - các thuỷ thủ cảm thấy trong những câu nói ngắt quãng
của thuyền trưởng một cái gì đó không hoàn toàn bình thường. Pan-ten thở
dài khoan khoái và vui ra mặt - cảm giác nặng nề khó hiểu ban nãy đã
tan biến. Chỉ có một anh thợ mộc trên tàu là tỏ ra không thích thú, anh
ta uể oải bắt tay Grây và cau có hỏi:

- Sao thuyền trưởng lại nghĩ ra chuyện như vậy?

- Thì cũng giống như anh bổ rìu xuống, thế thôi, - Grây nói.- Xim-me này, anh dẫn dàn nhạc của anh lại đây xem nào.

Sim-me vỗ vào lưng từng người rồi đẩy đến trước mặt Grây. Tất ca? là bảy người ăn mặc rất lôi thôi.

- Đây, - Xim-me nói,- đây là anh thổi kèn tơ-rôm-bôn, không phải thổi mà
là gào thét như súng đại bác. Hai cậu trai trẻ không râu này thổi kèn
đồng, nghe họ thổi thì chỉ muốn đi đánh nhau ngay. Đây là người thổi
coóc-nê-pit-tông, còn đây là cây vi- Ô-lông thứ hai. Tất ca? đều có kha?
năng hoà tấu rất ăn với tiếng đàn của tôi. Còn đây là nhân vật chủ chốt
của dàn nhạc chúng tôi - anh Phơ-rít chuyên đánh trống. Mấy anh đánh
trống thường có vẻ mặt ủ ê, nhưng anh Phơ-rít đây thì bao giờ cũng gõ
trống rất say sưa. Trong tiếng trống của anh có cái gì đó cởi mở, thẳng
thắn như cây dùi gỗ của anh. Mọi việc như thế là được rồi chứ, thưa
thuyền trưởng?

- Tuyệt lắm, - Grây nói. - Tất ca? các anh sẽ được thu xếp chỗ ở trong
khoang tàu, những chỗ đó lần này sẽ dùng để chở những thứ “hàng” đặc
biệt, đó là các điệu nhạc khác nhau từ a- đa-giô, xkét- xô đến
phoóc-tít-xi-mô. Thôi, cho giải tán. Pan-ten, anh cho cởi dây neo ra,
cho tàu đi thôi. Hai giờ sau tôi sẽ thay phiên cho anh.

Hai giờ sau đó anh cũng không chú ý đến bởi vì chúng cũng hoà vào thứ âm
nhạc nội tâm đang bám sát tâm trí anh như mạch đập không ngừng trong
huyết quản. Anh chỉ nghĩ về một điều, chỉ muốn có một điều, chỉ hướng
vào một đích. Là một người hành động, anh tưởng tượng ra trước ca? chuỗi
sự việc sẽ xảy ra. Anh chỉ tiếc rằng không thể điều khiển những sự việc
đó một cách đơn giản, nhanh chóng như điều khiển quân cờ. Vẻ bên ngoài
bình thản của anh không biểu lộ sự căng thẳng của tình cảm; tiếng âm
vang của nó khác nào tiếng chuông lớn gióng lên ở phía trên đầu, lan rất
nhanh khắp cơ thể anh như một tiếng rên làm nhức óc. Điều này cuối cùng
đã dẫn anh đến chỗ phải nhẩm đếm thầm:

“Một... hai... ba mươi... ”rồi “một ngàn”. Cách làm đó đã có tác dụng;
cuối cùng anh đã có thể nhìn vào mọi dự định một cách khách quan. Lúc
này anh hơi ngạc nhiên vì anh không thể hình dung được tâm hồn A-xôn,
bởi ngay ca? nói chuyện với cô, anh cũng chưa có dịp. Anh đã đọc ở đâu
đó rằng có thể hiểu được con người, mặc dù không rõ lắm, bằng cách tưởng
tượng mình là người ấy và bắt chước vẻ mặt của người ấy. Anh bắt đầu
tạo cho đôi mắt mình một vẻ khác thường mà anh vốn không có, trên môi
anh nở một nụ cười kín đáo, dịu dàng dưới hàng ria mép, thì anh bỗng sực
nhớ ra, cười phá lên rồi đi thay phiên cho Pan-ten.

Trời tối. Bẻ đứng cổ áo bluđông lên, Pan-ten đi đi lại lại quanh chiếc
la bàn và bảo người lái tàu: “Sang trái một phần tư rum-bơ, sang trái.
Lại một phần tư rum-bơ nữa”. Con tàu “Bí mật” giương nửa số buồm chạy
xuôi theo chiều gió.

- Thưa thuyền trưởng, tôi rất mừng, - Pan-ten nói với Grây.

- Về chuyện gì kia ?

- Như anh thôi. Tôi đã hiểu mọi chuyện rồi. Đây này, trên cái cầu chỉ
huy này, - anh ta ranh mãnh nháy mắt, ánh lửa trên tẩu thuốc soi rõ nụ
cười của anh ta.

- Nhưng mà này, - Grây bỗng đoán ra, - anh hiểu chuyện đó thế nào?

- Đó là cách hay nhất để chở các thứ hàng buôn lậu, Pan-ten thì thầm
nói. - Buồm thế nào là tùy thuộc vào ý thích của mỗi thuyền trưởng.
Nhưng mà anh quả là có đầu óc tuyệt vời, Grây ạ!

- Ô, anh bạn Pan-ten đáng thương! - Thuyền trưởng nói, không biết nên
cười hay nên giận. - Anh đoán rất thông minh, nhưng tiếc rằng chẳng có
cơ sở nào cả. Thôi, anh đi ngủ đi. Có thể đoán chắc với anh rằng anh đã
lầm. Tôi chỉ làm điều tôi vừa nói.

Anh để Pan-ten đi ngủ, kiểm tra lại hướng tàu đi rồi ngồi xuống. Bây giờ
thì chúng ta tạm ngừng nói tới Grây vì anh đang cần ở lại một mình.
Về Đầu Trang Go down
https://duonghoalac-hoabinh.forumvi.com
Admin
Admin
Admin
Admin

Tổng số bài gửi : 1754
Điểm : 6794
Ngày tham gia : 22/12/2010
Tuổi : 39
Đến từ : Hà Nội
Level: 39 Kinh nghiệm: 1754%
Sinh mệnh: 1754/100
Pháp lực: 39/100

NGƯỜI ĐIỀU HÀNH
Phù hiệu: Cánh buồm đỏ thắm POLLICE

Cánh buồm đỏ thắm Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Cánh buồm đỏ thắm   Cánh buồm đỏ thắm Icon_minitimeTue Mar 15, 2011 7:54 pm

Chương 6: A-xôn còn lại một mình

Lông-gren ở ngoài biển suốt đêm. Ông không ngủ, không đánh
cá, mà chỉ mặc cho buồm đưa đi vô định. Ông lơ đãng nghe tiếng nước róc
rách, nhìn bóng đêm, hóng mát và suy nghĩ. Vào những giờ phút nặng nề
của cuộc đời, không gì giúp ông lấy lại tinh thần tốt hơn những lần đi
ngao du một nình như thế. Im lặng, chỉ có im lặng và vắng vẻ mới là
những gì ông cần, để cho những tiếng nói yếu ớt nhất và dễ lẫn lộn nhất
của nội tâm vang lên một cách dễ hiểu. Đêm hôm ấy, ông trầm ngâm nghĩ về
tương lai, về nỗi nghèo khổ, về A-xôn. Để con gái ở nhà một mình dù chỉ
mấy ngày, ông cảm thấy rất khổ tâm. Hơn nữa ông còn sợ làm sống lại nỗi
đau cũ đã nguôi đi. Có thể khi đặt chân lên tàu, ông sẽ lại hình dung
rằng nơi ấy, ở làng Ca-péc-na, có người bạn đời không bao giờ chết vẫn
đang chờ ông. Rồi khi trở về làng, ông sẽ lại đi tới nhà mình với nỗi
đau khổ của sự đợi chờ tuyệt vọng. Không bao giờ Mê-ri còn bước ra ngoài
cửa nữa. Nhưng vì để có tiền nuôi A-xôn, ông đành phải xử sự theo cảnh
ngộ.

Khi Lông-gren về, A-xôn còn chưa có mặt ở nhà. Những lần dạo chơi sáng
sớm của cô không làm ông lo lắng, tuy vậy lần này ông vẫn thấy nóng ruột
khi chờ con. Ông đi đi lại lại trong nhà và khi quay lại, ông bất ngờ
trông thấy ngay A-xôn nhẹ nhàng bước nhanh vào nhà. Cô gái im lặng đứng
trước Lông-gren làm ông gần như sợ vì ánh mắt lộ vẻ xúc động. Tưởng
chừng như hiện lên khuôn mặt thứ hai của cô, khuôn mặt thật sự của một
người mà chỉ có đôi mắt là nói lên tất ca?. Cô gái im lặng nhìn vào
khuôn mặt Lông-gren một cách khó hiểu, đến nỗi ông phải hỏi ngay:

- Con ốm à?

Cô gái không tra? lời ngay. Cuối cùng khi ý nghĩa của câu hỏi nhập vào
tâm trí cô, cô mới sực tỉnh, như cánh hoa bị bàn tay chạm vào; rồi cô
bật cười giòn tan trong niềm hân hoan êm ái. Cô thấy cần phải nói một
điều gì, nhưng cũng như mọi khi, không cần phải nghĩ ngợi xem nói cái
gì, cô tra? lời bố:

- Không, con khoẻ bố ạ... Sao bố lại nhìn con thế? Con vui lắm. Qua?
thật là con rất vui vì hôm nay trời rất đẹp. Bố đã nghĩ ra chuyện gì
thế? Nhìn nét mặt bố, con cũng biết là bố vừa nghĩ ra chuyện gì rồi.

- Bố có nghĩ ra điều gì, - Lông-gren nói và bảo con gái ngồi xuống, -
thì bố biết là con cũng sẽ hiểu. Chẳng có gì mà ăn nữa con ạ. Bố không
xuống làm dưới tàu chạy đường dài nữa đâu, bố sẽ xin xuống làm ở tàu đưa
thư chạy trên tuyến Li-xơ Kát-xét thôi.

- Vâng, - cô gái lơ đãng nói, cố bắt vào mạch suy nghĩ của bố, nhưng rồi
cô sợ hãi thấy mình không sao kìm được niềm vui. - Thế thì dở lắm. Thế
thì con sẽ buồn đấy. Bố về nhanh lên nhé. - Cô gái nói vậy và một nụ
cười nén được làm cho cô tươi lên. - Vâng, bố về nhanh lên, con đợi.

- A-xôn! - Lông-gren nói, hai tay áp má con gái, quay mặt con về phía mình. - Con nói thật đi, chuyện gì đã xảy ra với con vậy?

Cô gái cảm thấy cần phải xua tan mối lo của bố, cô kìm niềm hân hoan,
làm ra vẻ chăm chú một cách nghiêm trang, duy ánh mắt vẫn sáng lên một
sức sống mới.

- Bố lạ thật đấy, - cô nói, - hoàn toàn không có gì đâu. Con đi lượm hạt dẻ mà.

Nếu không mải suy nghĩ, chắc hẳn Lông-gren đã có thể không tin hoàn toàn
vào điều đó. Hai bố con bắt đầu bàn tính tỉ mỉ. Người thuỷ thủ bảo con
gái sắp xếp túi cho ông, kiểm kê lại các thứ cần thiết, rồi dặn dò con
vài điều:

- Chừng mười hôm nữa bố sẽ về. Con cất kỹ súng của bố, đừng bỏ nhà đi
đâu. Nếu có kẻ nào định gây chuyện với con thì con hãy nói với nó rằng:
ông Lông-gren sắp về. Đừng nghĩ ngợi và lo lắng gì cho bố ca?. Không thể
có chuyện gì xấu xảy ra đâu.

Sau đó ông ăn qua loa, hôn con gái rồi vắt túi qua vai bước ra khỏi nhà
đi lên thị trấn. A-xôn nhìn theo ông cho đến khi ông đi khuất sau chỗ
đường vòng. Cô gái quay vào nhà. Ở nhà còn nhiều việc phải làm, nhưng
A-xôn không nhớ gì đến nữa. Cô đưa mắt nhìn quanh, hơi ngạc nhiên như cô
là người xa lạ với căn nhà này, ngôi nhà đã gắn bó với cô từ thưở nhỏ,
tưởng chừng cô vẫn luôn luôn mang nó trong lòng. Nhưng giờ đây căn nhà
đó tựa như quê hương thân thiết mà sau nhiều năm sống một cuộc đời khác
cô lại về thăm. Cô tự thấy có cái gì không hay, không ổn trong cảm giác
vừa rồi. Cô ngồi xuống bên chiếc bàn nơi trước đây Lông- Gren vẫn thường
làm đồ chơi. Cô thử gắn bánh lái vào đuôi tàu. Nhìn những con tàu đó,
A-xôn bỗng thấy chúng to như thật, những gì xảy ra sáng nay lại làm cô
xúc động, chiếc nhẫn vàng như to dần lên bẳng ca? khối mặt trời bay qua
biển và đến bên chân cô.

Đứng ngồi không yên, A-xôn bước ra khỏi nhà và đi lên thị trấn Li-xơ. Cô
hoàn toàn chẳng có việc gì phải làm trên đó, cô không biết đi lên đó
làm gì, nhưng không đi không đành. Trên đường đi, cô gặp một người đi
đường hỏi thăm về một nơi nào đó, cô chỉ dẫn tỉ mỉ cho người ấy rồi sau
đây quên luôn.

Cô đi qua suốt dọc con đường dài mà không hay biết, tựa hồ cô mang theo
một con **** nào đó thu hút toàn bộ sự chăm sóc dịu dàng của cô. Ở thị
trấn, tiếng ồn ào xung quanh có làm cô xao lãng đôi chút, nhưng không
còn chế ngự được cô như trước đây nó đã từng doa. dẫm, lấn át, làm cho
cô trở nên nhút nhát, ít nói. Giờ đây cô đương đầu với nó. Cô chậm rãi
đi qua một đường phố hình vành đai, bước qua những bóng cây xanh sẫm,
tin tưởng và thanh thản nhìn gương mặt những người đi đường. Chân cô
bước đều, lòng đầy tự tin. Những người ưa quan sát, vào ngày hôm đó, có
thể vài lần trông thấy một cô gái, ánh mắt khác thường, đi lẫn giữa đám
đông với vẻ mặt trầm tư. Đến quảng trường, cô đưa tay xoè ra hứng những
tia nước từ vòi phun tuôn lên. Sau đó, cô ngồi xuống nghỉ một lúc rồi
quay trở về làng trên con đường xuyên qua cánh rừng. Trên đường về, cô
cảm thấy lòng mình nhẹ nhõm, thanh thản, bình yên, hệt như con sông về
đêm, cuối cùng đã tránh được những tia nắng mặt trời chói chang để được
lặng lẽ trôi trong bóng tối êm đềm. Khi về đến gần làng, cô trông thấy
ông già đốt than, người đã được nghe cô nói rằng chiếc giỏ của ông sẽ nở
hoa. Ông đang đứng cạnh chiếc xe ngựa cùng hai người khác, vẻ mệt mỏi,
mặt mũi dính than lem luốc. A-xôn mừng rỡ.

- Chào bác Phi-líp, -cô gái nói, - bác làm gì ở đây thế?

- Cái bánh xe nó bị trật ra, bác đã chữa được rồi, bây giờ thì ngồi hút
ít thuốc, tán gẫu với hai anh bạn trẻ này. Cháu đi đâu về thế?

A-xôn không tra? lời.

- Bác biết không, bác Phi-líp, - cô gái nói, - cháu rất quý bác nên cháu
mới nói cho một mình bác biết điều này nhé. Cháu sắp đi khỏi đây rồi,
chắc là đi luôn bác ạ. Bác đừng nói lại với ai nhé.

- Cháu muốn đi khỏi đây sao? Cháu định đi đâu? - Ông thợ đốt than ngạc
nhiên, miệng há to, vì thế mà bộ râu ông trông như dài hơn.

- Cháu cũng không biết nữa. - Cô chậm rãi đưa mắt nhìn khoảng rừng trống
bên cây du, nơi chiếc xe ngựa đỗ, những đám cỏ xanh dưới ánh nắng chiều
hồng nhạt, nhìn những người thợ đốt than đen sạm đang im lặng, rồi nói
thêm: - Tất ca? những điều này cháu đều chưa rõ. Cháu không hề biết ngày
nào, giờ nào, thậm chí đi đâu cháu cũng không biết. Cháu không thể nói
gì hơn. Vì vậy, đề phòng nhỡ không gặp lại được bác, cháu xin chào bác
trước nhé. Bác thường cho cháu đi nhờ xe.

Cô gái cầm lấy bàn tay to đen của bác Phi-líp, khẽ đung đưa. Gương mặt
người thợ già thoáng hiện nụ cười. Cô gái gật đầu, quay người rồi đi. Cô
mất hút nhanh đến nỗi Phi- líp và hai anh bạn trẻ không kịp quay đầu
nhìn.

- Lạ thật, - người thợ đốt than nói, - thật khó mà hiểu được cô gái. Hôm nay không biết có chuyện gì đã xảy ra với cô ta.

- Chắc thế, - người thứ hai phụ họa theo, - không ra báo tin, không ra thuyết phục. Nhưng mà chẳng phải chuyện của chúng ta.

- Phải đấy, đâu phải chuyện của ta, - người thứ ba thở dài nói.

Sau đó cả ba người ngồi lên xe ngựa. Chiếc xe lăn bánh cách cách trên con đường lổn nhổn những đá, khuất dần trong đám bụi.
Về Đầu Trang Go down
https://duonghoalac-hoabinh.forumvi.com
Admin
Admin
Admin
Admin

Tổng số bài gửi : 1754
Điểm : 6794
Ngày tham gia : 22/12/2010
Tuổi : 39
Đến từ : Hà Nội
Level: 39 Kinh nghiệm: 1754%
Sinh mệnh: 1754/100
Pháp lực: 39/100

NGƯỜI ĐIỀU HÀNH
Phù hiệu: Cánh buồm đỏ thắm POLLICE

Cánh buồm đỏ thắm Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Cánh buồm đỏ thắm   Cánh buồm đỏ thắm Icon_minitimeTue Mar 15, 2011 7:54 pm

Chương 7: Cánh buồm đỏ thắm

Một buổi sớm mai. Sương mờ mờ trắng đục bao phủ khắp khu
rừng thấp thoáng những hình thù kỳ dị. Một người thợ săn vừa rời đống
lửa của mình đi dọc theo bờ sông. Qua những hàng cây, khoảng trời trên
sông lộ ra thoáng đãng. Nhưng người thợ săn cần cù không đi về phía ấy
mà lần theo chân con gấu vừa đi về phía núi.

Bỗng một âm thanh bất ngờ vút qua đám cây cối, đột ngột như một cuộc
rượt đuổi náo động, đó là tiếng kèn cơ-la- ri-nét cất lên. Người nhạc
công bước ra boong ràu, thổi một điệu nhạc buồn buồn, lắp đi lắp lại.
Tiếng kèn run rẩy nghe như giọng ai đang cố giấu nỗi niềm trắc ẩn. Tiếng
kèn nghe mạnh hơn và bỗng chuyển sang âm điệu tươi vui như thoáng nở nụ
cười rồi im bặt. Tiếng vọng xa xa mơ hồ lặp lại âm điệu ấy.

Người thợ săn nhận thấy dấu vết một cành cây gãy và đi về chỗ có nước.
Sương vẫn chưa tan, trong sương mù ẩn hiện bóng hình một can tàu lớn
đang từ từ rẽ vào cửa sông. Những lá buồm cuốn đã được mở rộng, buông
diềm, căng ra, che lấp những cột buồm như những tấm lá chắn bất lực có
nhiều nếp gấp to. Có tiếng người nói và tiếng bước chân đi lạ. Làn gió
trên bờ uể oải thổi vào những cánh buồm. Cuối cùng hơi ấm của mặt trời
đã có tác dụng. Sức gió tăng lên làm tan sương mù, gió thổi căng phồng
những cánh buồm đỏ thắm. Ánh hồng lung linh trên nền trắng của cột buồm
và dây dợ. Tất cả đều màu trắng, trừ những cánh buồm đang căng ra là màu
đỏ, màu của niềm vui sâu sắc.

Người thợ săn đứng trên bờ giụi mắt mãi cho đến khi tin rằng mình đã
không nhìn lầm. Con tàu đã khuất sau quãng sông uốn khúc mà anh ta vẫn
đứng ngây ra nhìn theo. Một lúc sau, anh ta khẽ nhún vai, rồi tiếp tục
lần theo vết chân gấu.

Khi con tàu Bí mật đang xuôi theo dòng sông, Grây tự tay mình cầm bánh
lái, không để ai khác làm việc đó vì anh sợ tàu mắc phải những bãi cát
ngầm. Pan-ten ngồi bên cạnh, anh vận chiếc áo dạ mới, đội chiếc mũ nới,
cạo râu nhẵn nhụi, vẻ mặt đăm chiêu. Anh vẫn chẳng thấy có điều gì liên
quan giữa mục đích thật sự của Grây và những cánh buồm đỏ thắm.

- Bây giờ, - Grây nói, - khi cánh buồm của tôi đang rực đỏ, gió thổi
khoan thai, lòng tôi tràn ngập một niềm vui còn lớn hơn ca? nỗi mừng của
chú voi trông thấy người ta đem thức ăn tới, tôi mới cố gắng giải thích
cho anh hiểu những ý nghĩ của tôi, như lúc còn ở Li-xơ tôi đã hứa. Anh
nên lưu ý rằng tôi không hề coi anh là ngu đần hay ương ngạnh, không,
anh là một thuỷ thủ mẫu mực. Điều đó quý lắm. Nhưng cũng như phần lớn
mọi người, anh đã theo những chân lý giản đơn qua lớp kính dày đặc của
cuộc đời, chúng kêu to lên mà các anh không nghe thấy. Tôi chỉ làm một
việc đang tồn tại như ý niệm cổ xưa về cái đẹp hão huyền, một việc thật
ra có thể thực hiện được dễ dàng như một cuộc dạo chơi ngoài thành phố.
Lát nữa anh sẽ nhìn thấy một người con gái, người ấy không thể không gặp
gỡ bạn đời của mình một cách nào khác ngoài cách mà anh đang nhìn thấy.

Anh giải thích ngắn gọn cho Pan-ten nghe điều mà chúng ta đều biết rõ, rồi kết thúc bằng những lời thế này:

- Anh thấy đấy, ở đây số phận, ý chí, tính tình của con người đã gặp gỡ
hoà hợp như thế nào. Tôi đang đến với người con gái chỉ chờ đợi tôi, còn
tôi cũng không muốn một ai khác ngoài cô ấy, có lẽ chính vì nhờ cô ấy
mà tôi đã hiểu được một chân lý giản đơn. Chân lý đó là cần phải tạo ra
những điều kỳ diệu bằng chính bàn tay của mình. Nếu đối với một người
nào đó, kiếm được tiền là quý nhất, thì có thể dễ dàng cho anh ta đồng
tiền. Nhưng nếu khi tâm hồn con người ấp ủ hạt giống của một cái cây
nồng thắm là sự diệu kỳ, thì hãy tạo cho anh ta điều đó, nếu ta có thể
làm được. Khi đó ca? anh ta và ca? ta cũng sẽ có một tâm hồn mới. Khi
người cai ngục tự tay mình tha? tù nhân, khi một nhà tỉ phú tặng cho
viên thư ký một toà biệt thự, một cô đào hát và một két bạc, khi một kỵ
sĩ kìm con ngựa đua của mình lại để chờ con ngựa khác không gặp may thì
lúc đó mọi người đều thấy đấy là chuyện tốt lành và vô cùng kỳ lạ. Nhưng
còn có những điều không kém phần kỳ lạ hơn: đó là nụ cười, niềm vui,
lòng độ lượng và có thể chỉ là một lời cần thiết được nói đúng lúc. Có
được cái đó có nghĩa là có tất ca?. Về phần tôi, thì buổi đầu tiên hôm
nay A-xôn và tôi nhận ra nhau sẽ mãi mãi in trong tâm trí tôi với sắc
màu của những cánh buồm đỏ thắm, những cánh buồm được tạo ra từ đáy sâu
của một trái tim đã hiểu thế nào là tình yêu. Anh hiểu tôi rồi chứ?

- Vâng, thưa thuyền trưởng, tôi đã hiểu, - Pan-ten nói nhỏ, lấy chiếc
khăn tay gấp cẩn thận ra lau bộ ria. - Tôi hiểu tất ca? rồi. Anh đã làm
tôi xúc động. Tôi đi xuống khoang xin lỗi cậu Ních đây, hôm qua tôi vừa
mắng cậu ta vì cậu ấy đánh đổ xô nước. Tôi sẽ cho cậu ấy ít thuốc lá của
tôi, cậu ta hết thuốc hút rồi.

Grây hơi ngạc nhiên vì kết qua? thiết thực chóng vánh của những lời mình
vừa nói, anh chưa kịp nói gì thêm thì Pan-ten đã nện gót xuống cầu
thang. Ở đó, thoáng nghe tiếng anh thở dài. Grây ngẩng nhìn lên cao.
Phía trên đầu anh, những cánh buồm đỏ thắm đang lặng lẽ đón gió, các
đường chỉ bắt ánh mặt trời lung linh như khói màu hồng. Con tàu Bí mật
đã ra đến biển, mỗi lúc một xa bờ hơn. Trong lòng anh không gợn chút hồ
nghi, lo âu, tâm hồn anh lúc này thanh thản, yên bình như cánh buồm lướt
tới đích diệu kỳ, tràn đầy những ý nghĩ vượt trước ca? lời nói.

Gần đến trưa, từ phía chân trời hiện lên làn khói của một chiếc tàu tuần
dương. Con tàu quân sự đổi hướng đi và cách chừng nửa dặm thì cho phát
lệnh: “Dừng lại!”.

- Các anh em, - Grây nói với thuỷ thủ, - họ không bắn chúng mình đâu, đường có sợ, họ chỉ không tin vào mắt mình đó thôi.

Anh ra lệnh cho tàu ngừng chạy. Pan-ten gào lên như đang có đám cháy để
cho gió không thổi căng buồm. Con tàu dừng lại. Vào lúc ấy, một chiếc
xuồng máy tách ra khỏi tàu tuần dương. Ngồi trên xuồng là mấy thuỷ thủ
cùng với một viên trung úy đeo găng tay trắng. Viên trung úy bước lên
boong tàu Bí mật, ngạc nhiên nhìn quanh rồi cùng Grây đi vào buồng
thuyền trưởng. Khoảng một giờ sau, anh ta cáo từ, xuống xuồng ra về, vẫu
vẫy tay, miệng cười tươi như vừa được thăng chức. Có lẽ lần này Grây
còn gây được tác động mạnh mẽ hơn là với chàng Pan-ten chất phác, bởi vì
lần này chiếc tàu tuần dương ấy đã đi chậm lại và bắn một loạt đại bác
chào mừng, những đụn khói đen từ nòng súng bốc lên cao rồi toa? dần ra
trên mặt nước yên lặng. Suốt ngày hôn đó, không khí trên tàu, từ phòng
khách đến khoang máy, mọi người đều bàn tán về câu chuyện vừa gặp, về
tình yêu. Người lính gác kho thuỷ lôi hỏi một thuỷ thủ đi ngang qua:

- Này, Tôm, cậu lấy vợ thế nào?

- Tớ túm lấy cô ta khi cô ta định nhảy qua của sổ tránh tớ. - Tôm đáp và kiêu hãnh xoắn ria mép.

Con tàu Bí mật lênh đênh ngoài biển khơi một lúc, đến khoảng trưa thì
đất liền đã hiện ra xa xa. Grây cầm ống nhòm nhìn về phía làng
Ca-péc-na. Nếu không vướng các mái nhà, chắc anh đã nhìn thấy A-xôn đang
ngồi sau khung cửa sổ đọc sách. Cô ngồi đọc sách, trên trang giấy có
con cánh cam nhỏ bò đi bò lại với vẻ như đấy là nhà của nó. Đã hai lần
A-xôn thổi nó bay ra bệ cửa sổ, nhưng rồi nó lại bay đến như định nói
điều gì. Với vẻ tin cậy, thoải mái, lần này nó đậu ngay bên ngón tay cô
gái đang cầm vào mép trang sách, ở đây nó dừng lại ở chữ “nhìn kìa”, nó
lại sợ bị hất đi lần nữa. Và qua? thật, suýt nữa thì nó khó tránh khỏi
xuống đất và A-xôn đã kêu lên: “Lại mày hả, cánh cam!... ”- A-xôn vừa
định hất nó xuống thì tình cờ cô ngửng đầu lên và nhìn thấy đằng sau mái
nhà là mặt biển khơi xanh biếc với hình một con tàu trắng mang những
cánh buồm đỏ thắm.

Cô gái rùng mình, nga? đầu ra phía sau, lặng đi. Liền đó, cô đứng bật
dậy, đầu óc quay cuồng, tim dường như ngừng đập, những giọt lệ xúc động
kinh hoàng trào ra trên khoé mắt. Con tàu Bí mật lúc này đang vượt qua
doi đất nhô ra ngoài biển, áp mạn trái vào bờ. Tiếng nhạc từ trên boong
tàu nhẹ nhàng lan toa? xuống mặt biển xanh rờn. Dưới ánh hồng của cánh
buồm đỏ thắm, tiếng nhạc du dương ngân nga theo điệu một bài ca quen
thiộc: “Cạn chén đi, cạn chén đi các bạn, chúng ta mừng cho tình yêu... ”
Bài ca bình dị, hân hoan, bộc lộ niềm xúc động mạnh mẽ.

Không nhớ rằng mình đã ra khỏi nhà thế nào, A-xôn chạy về phía biển, như
được ngọn gió phóng túng nâng cô lên. Đến chỗ ngoặt cô dừng lại, gần
như kiệt sức, chân khuỵu xuống, hơi thở đứt quãng, cô giậm chân chạy
tiếp. Khi thì một mái nhà, khi thì bờ rào che khuất cánh buồm đỏ thắm.
Những lúc đó A-xôn sợ con tàu ấy biến mất đi như một ảo ảnh, cô cố chạy
nhanh qua vật che và lại trông thấy con tàu. Cô dừng lại, thở phào nhẹ
nhõm.

Vào lúc ấy, ở làng Ca-péc-na đã xảy ra cảnh tượng khác thường, mọi người
kinh ngạc, tất tưởi, nhốn nháo hết như trong làng vừa có trận động đất.
Chưa bao giờ có chiếc tàu lớn như vậy đi vào bờ biển làng này. Con tàu
lại mang chính cánh buồm mà lâu nay mọi người trong làng vẫn nhạo báng.
Bây giờ thì những cánh buồm đỏ rực lên như một sự vật hiển nhiên, bác bỏ
mọi quy luật của cuộc sống và lẽ phải. Đàn ông, đàn bà, trẻ con vội vã
đỏ xô ra bờ biển. Dân làng gọi nhau í ới, va phải nhau, ngã dúi dụi, hò
la ầm ĩ. Một lúc sau, sát bên bờ nước đã tụ tập ca? một đám đông. Và
A-xôn xăm xăm chạy đến chỗ ấy.

Khi cô gái chưa đến, mọi người đua nhau nhắc đến tên cô với vẻ vừa lo
âu, nôn nóng, vừa sợ hãi. Đàn ông nói nhiều hơn, cánh đàn bà chỉ xì xào
bàn tán ra vẻ ghen tị. Lúc A-xôn vừa xuất hiện, mọi người đều im bặt, sợ
hãi tránh cô, khiến cô chỉ còn lại một mình giữa nơi hoang vắng của bãi
cát nóng bỏng. Cô bối rối, e thẹn, hạnh phúc, khuôn mặt hồng lên không
kém gì cánh buồm kỳ diệu của cô , hai tay bất lực đưa vê phía con tàu
lớn.

Một con thuyền tách ra khỏi tàu, những người chèo thuyền trông đến vạm
vỡ rám nắng. Đứng giứa thuyền là chàng trai mà giờ đây cô mơ hồ cảm thấy
như đã gặp từ thuở thơ ấu. Chàng trai mỉm cười nhìn cô, nụ cười thôi
thúc và làm ấm lòng người. Trăm ngàn nỗi sợ hãi chợt đến với cô. Cô sợ
có chuyện nhầm lẫn hay nhỡ có điều bí ẩn cản trở. Cô chạy xuống làn nước
ấm áp, sóng nhẹ vỗ đung đưa, và kêu lên:

- Em ở đây, em ở đây! Em đây!

Đúng lúc ấy, Xim-me cầm đàn khoát tay ra hiệu. Ca? dàn nhạc cùng hoà
theo bài ca ban nãy, nhưng lần này nghe mạnh hơn, nghiêm trang hơn. Mây
bay, sóng vỗ, ánh mặt trời lấp loáng trên mặt nước, lòng tràn ngập xúc
động, cô gái hầu như không còn phân biệt được cái gì đang chuyển động:
bản thân mình, con tàu hay chiếc thuyền - tất ca? đều quay cuồng, chao
đảo.

Nhưng tiếng mái chèo khoa? nước đã ngay bên cô, cô ngẩng đầu lên. Grây
cúi xuống, cô với tay bám vào người anh. A-xôn hơi lim dim mắt, rồi liền
sau đó cô mở to mắt, mỉm cười nhìn gương mặt rạng rỡ của Grây, vừa thở
gấp vừa nói:

- Hoàn toàn giống như em tưởng tượng.

- Em cũng thế, em của anh! - Grây nhấc bổng cô gái bị ướt đẫm lên thuyền và nói. - Thế là anh đã đến. Em có nhận ra anh không?

Cô gái khẽ gật đầu, hai bàn tay đặt vào eo lưng anh, mắt lim dim, lòng
rộn ràng, náo nức. Hạnh phúc tràn ngập trái tim cô. Khi cô lại mở mắt ra
thì từ con thuyền đang rập rình trên sóng đến con tàu Bí mật đang quay
mũi lái - tất ca? đều là một giấc mơ, trong đó ánh mặt trời và mặt nước
quấn quít đùa giỡn bên nhâu. Cô không còn nhớ mình đã được Grây dìu lên
cầu thang như thế nào. Boong tàu trải thảm, ánh buồm đỏ thắm hắt xuống,
trông như một góc vườn thượng uyển. Một lát sau, cô thấy mình đứng trong
căn phòng thuyền trưởng trang hoàng lộng lẫy.

Từ trên boong tàu, tiếng nhạc lôi cuốn lòng người lại vang lên. A-xôn
lại nhắm mắt, sợ rằng tất ca? sẽ biến mất nếu cô nhìn. Grây cầm lấy tay
cô gái, và cô tin cậy úp gương mặt giàn giụa nước mắt vào ngực người bạn
đời đã xuất hiện một cách thần kỳ như vậy. Sững sờ xúc động bởi cái
giây phút khó ta? và vô cùng quý giá đã đến, cái giây phút mà không ai
có được, Grây mỉm cười gượng nhẹ nâng cằm cô gái lên. Đây là khuôn mặt
mà anh đã mơ ước bao lâu. Cuối cùng, đôi mắt cô gái lại mở to. Trong ánh
mắt cô có tất ca? những gì tốt đẹp nhất cảu con người.

- Anh cho bố em cùng đi với chúng mình chứ?- cô nói.

- Phải rồi. - Grây hôn cô thắm thiết sau câu tra? lời rắn chắc “phải rồi” khiến cô bật cười.

Bây giờ chúng ta hãy tránh xa họ vì biết rằng họ cần ở một mình bên
nhau. Nhiều lời bằng nhiều thứ tiếng đã nói về những người yêu nhau,
nhưng không bao giờ có thể truyền đạt được hết những gì họ đã nói vói
nhau vào buổi đầu gặp gỡ ấy.

Cùng lúc ấy, trên boong tàu, dưới chân cột buồm, bên cạnh chiếc thùng gỗ
nham nhở đã vẹt ca? đáy, trong chứa thứ rượu trăm năm tuyệt ngon, tất
ca? thuỷ thủ đang chờ đợi thuyền trưởng của mình. át-vút đứng, Pan-ten
thì ngồi một cách oai vệ, vẻ mặt tươi hơn hớn như vừa được tái sinh.
Grây bước lên boong tàu, ra hiệu cho dàn nhạc nổi kèn trống. Anh bỏ mũ
ra và là người đầu tiên cầm cấy chiếc cốc nhiều cạnh múc đầy thứ rượu
nho thiêng liêng.

- Nào, các bạn... - anh uống một hơi cạn cốc rượu, đặt cốc xuống và nói,
- Bây giờ thì chúng ta uống thôi, tất ca? đều uống, ai không uống,
người ấy là kẻ thù của tôi.

Anh không phải nhắc lại lần thứ hai câu nói ấy. Trong lúc con tàu Bí mật
dăng hết buồm lướt nhanh ra biển khơi, để làng Ca-péc-na mãi mãi kinh
hoàng lại đằng sau, các thuỷ thủ vẫn còn chen chúc quanh thùng rượu còn
quá cái cảnh vẫn thường diễn ra trong những ngày hội lớn.

- Thế nào, cậu có thấy thích không hở Lê-chi-ca? - Grây hỏi?

- Thưa thuyền trưởng, - Lê-chi-ca vừa nói vừa tìm chữ, - tôi cũng không
biết tôi có thích không, nhưng qua? thật ấn tượng của tôi cần phải nghĩ
kỹ mới nói được. Tổ ong và vườn hoa!

- Anh nói gì vậy?

- Thưa thuyền trưởng, tôi muốn nói rằng trong miệng tôi như có ai đặt
mật ong và hoa vào. Chúc thuyền trưởng hạnh phúc. Và xin chúc mọi điều
tốt lành cho cô gái của thuyền trưởng, thứ “hàng tuyệt vời” mà chúng ta
đã được chở, phần thưởng cao nhất của con tàu Bí mật này.

Hôm sau, khi một ngày mới lại bắt đầu, con tàu đã ở cách xa làng
Ca-péc-na. Nhiều thuỷ thủ ngủ ngay trên boong tàu sau khi uống thứ rượu
tuyệt vời của Grây. Chỉ còn người lái tàu và trực ban là tỉnh táo.
Xim-me đã ngà ngà say, ngồi ôm cây đàn vi- Ô-lông-xen ở đằng lái, vẻ mặt
trầm ngâm. Anh nhẹ nhàng kéo mã vĩ làm ngân lên điệu nhạc diệu kỳ như
không phải ở cõi trần này, và anh nghĩ về hạnh phúc...

Alexandre Grin (1920-1921)
Về Đầu Trang Go down
https://duonghoalac-hoabinh.forumvi.com
Sponsored content



Level: Kinh nghiệm: %
Sinh mệnh: /100
Pháp lực: /100

Cánh buồm đỏ thắm Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Cánh buồm đỏ thắm   Cánh buồm đỏ thắm Icon_minitime

Về Đầu Trang Go down
 

Cánh buồm đỏ thắm

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
HÒA LẠC HÒA BÌNH-EXPRESSWAY :: GIẢI TRÍ :: VĂN HỌC :: Tiểu thuyết-
Chuyển đến