HÒA LẠC HÒA BÌNH-EXPRESSWAY
Chào mừng bạn đến với diễn đàn trang web Hòa Lạc - TP.Hòa Bình Expressway !
HÒA LẠC HÒA BÌNH-EXPRESSWAY
Chào mừng bạn đến với diễn đàn trang web Hòa Lạc - TP.Hòa Bình Expressway !
HÒA LẠC HÒA BÌNH-EXPRESSWAY
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.


 
Trang ChínhTìm kiếmLatest imagesĐăng kýĐăng Nhập
Thiết kế name card, độc đáo kết hợp màu sắc ấn tượng
In card visit nhanh, in card visit rẻ đẹp, in card visit ở Hà Nội
Chuyên photo A4-A0, photocopy giá rẻ
In nhanh poster đẹp tại Hà Nội
Nơi in tờ rơi, tờ gấp màu nhanh nhất tại Hà Nội
in card công ty xây dựng Trần Đăng Ninh
In màu a4-a3, photo coppy, giá rẻ năm 2014 tại Trung Hòa
in màu a4-a3 laser siêu rẻ, siêu đẹp, đặc biệt giá cả rất hợp lý — Hà Nội
Làm kỷ yếu, in kỷ yếu số lượng ít đẹp và trang nhã, thiết kế chuyên nghiệp chất lượng cao tại Hà Nội
In kỷ yếu giá rẻ nhất Hà Nội
In kẹp file, kẹp tài liệu giá cả cạnh tranh
Đường cao tốc Chongzun
Autorun Virus Remover 3.1.0422 - Ngăn chặn mọi virus autorun từ USB
Microsoft Security Essentials 2.1.1116.0 Final - Trình diệt virus miễn phí từ Microsoft
5 Antivirus miễn phí tốt nhất của năm 2011
[Phần mềm + Hướng dẫn]Tích hợp Hiren's BootCD 14.1 Rebuild và mọi phiên bản vào menu boot vào Ổ Cứng (HDD) và RAM cho Windows 7 !!!
[Phần mềm + Hướng dẫn]Tích hợp Hiren's BootCD 14.1 Rebuild và mọi phiên bản vào menu boot vào Ổ Cứng (HDD) và RAM cho Windows 7 !!!
TuneUp Utilities 2010 9.0.2020.2 Final - Bộ công cụ tối ưu hàng đầu cho PC
Hot! Driver.Genius.Pro v10.0.0.761 Final _Crack No Virus ---Update driver mới nhất -» CHUẨN KO CẦN CHỈNH->NHANH TAY HỐT NÀO :D
Your Uninstaller! 7.4.2011.12 (Updated 08.11.2011) _ Gỡ phần mềm hàng đầu !!!





















Share | 
 

 Bản du ca cuối cùng - Erich Maria Remarque

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Go down 
Tác giảThông điệp
Admin
Admin
Admin
Admin

Tổng số bài gửi : 1754
Điểm : 6794
Ngày tham gia : 22/12/2010
Tuổi : 38
Đến từ : Hà Nội
Level: 38 Kinh nghiệm: 1754%
Sinh mệnh: 1754/100
Pháp lực: 38/100

NGƯỜI ĐIỀU HÀNH
Phù hiệu: Bản du ca cuối cùng - Erich Maria Remarque POLLICE

Bản du ca cuối cùng - Erich Maria Remarque Empty
Bài gửiTiêu đề: Bản du ca cuối cùng - Erich Maria Remarque   Bản du ca cuối cùng - Erich Maria Remarque Icon_minitimeThu Apr 14, 2011 7:46 pm

Chương 1

Đang ngủ say, Kern giựt mình nhổm phắt lên, nghe ngóng.
Như tất cả những kẻ bị tróc nã, Kern tỉnh hẳn ra, sẵn sàng chạy trốn.
Ngồi bất động trên giường, hơi nghiêng người một bên, anh nghĩ tới cách
đào thoát một khi thang lầu bị chận.

Căn phòng ở tận lầu tư. Cửa sổ mở ra sân chẳng có bao lơn nên không thể
từ đó đu mình tới ống máng. Thế là không thể trốn thoát qua ngả đó. Chỉ
còn một cách duy nhứt là băng qua hành lang để chạy tới vựa lúa, và từ
đó, vượt mái ngói sang nhà bên cạnh.

Kern nhìn xuống mặt đồng hồ dạ quang. Năm giờ hơn. Trời vẫn còn tối
trong phòng, hai tấm vải trải giường gần đó làm thành hai đốm mờ. Anh
chàng Ba Lan nằm sát tường đang ngáy.

Nhẹ nhàng và cẩn thận, Kern bước xuống giường, rón rén tới cửa. Ngay lúc
đó, người nằm trên chiếc giường giữa phòng động đậy, hỏi nhỏ:

- Chuyện gì vậy...

Kern không đáp, áp sát tai vào cửa. Người vừa hỏi đứng lên. Anh ta mò
tìm trong đống đồ treo ở thanh giường sắt. Aùnh đèn bấm bật lên, một
vũng sáng tròn mờ nhạt rọi vào cánh cửa màu nâu và một phần người của
Kern với chiếc quần đùi nhầu nát và mái tóc rối bù. Người cầm đèn bấm
bực mình, hỏi:

- Ê, chuyện gì vậy...

Kern đứng thẳng lên:

- Không hiểu. Tôi giựt mình vì nghe có tiếng động.

- Tiếng động... Nhưng tiếng động gì, đồ ngu...

- Có tiếng động ở tầng dưới. Tiếng người nói, hay tiếng bước chân gì đó, không rõ lắm.

Người cầm đèn bấm bước xuống giường, đi tới cửa. Anh ta mặc áo sơmi vàng
nhạt, dài gần tới gối còn ló ra đôi chân rắn chắc đầy lông lá. Hắn hỏi
Kern:

- Ở đây bao lâu rồi...

- Hai tháng.

- Có lần nào bị bố ráp chưa...

Kern lắc đầu.

- Hừ, vậy là nghe lầm rồi. Người ta đáng rắm ban đêm chắc cũng tưởng là tiếng sấm.

Anh ta chiếu đèn vào mặt Kern:

- Mấy tuổi rồi... Chắc hai mươi... Dân tị nạn hả...

- Đúng.

Anh chàng Ba Lan ngồi ở góc phòng lè nhè:

- Jesus Christus tso siem Stalo.

Người mặc áo sơmi đưa ánh đèn về phía đó, một bộ râu rễ tre, một cái
miệng há hốc và hai con mắt mở to dưới đôi chân mày rậm hiện ra. Người
cầm đèn bấm gừ gừ:

- Câm miệng lại, Ba Lan! Chúa đã chết từ lâu!

- Tso...

Kern vụt chạy lại giường:

- Rồi, họ đang tới. Mình phải vượt mái nhà.

Người cầm đèn bấm xoay tròng người thật nhanh. Tầng dưới có tiếng cửa mở tung và tiếng người xôn xao.

- Ê, chạy đi Ba Lan! Cảnh sát tới!

Anh ta quơ lấy đồng hồ trên giường, hỏi Kern:

- Biết đường hả...

- Biết. Bên phải, dọc theo hành lang. Lên thang lầu phía sau bồn nước.

- Được rồi, dông! Anh ta vừa nói vừa nhè nhẹ mở cửa ra. Gã Ba Lan lẩm bẩm:

- Matka boska.

- Câm miệng! Nhớ là không được khai gì cả, nghe chưa...

Kern và người mặc sơmi băng qua hành lang bẩn thỉu. Họ bước nhẹ đến nỗi
còn nghe được tiếng nhỏ giọt tí tách của vòi nước khóa không được chặt.

- Qua bên này.

Kern vừa bảo nhỏ vừa lách vào góc quanh và chạm phải vật gì đó khiến
người lảo đảo. Vừa kịp nhận ra viên Cảnh sát trước mặt, Kern toan quay
người lại thì bị đánh mạnh vào tay.

- Đứng yên! Đưa tay lên!

Kern buông đống đồ xuống, khuỷu tay trái đau buốt, cả cánh tay tê dại.
Người mặc sơmi vừa định chồm tới thì một họng súng chĩa vào ngực. Anh ta
từ từ đưa hai tay lên.

- Quay lưng lại. Tới đứng trước cửa sổ.

Người Cảnh sát cầm súng bảo đồng nghiệp:

- Xét xem chúng có gì không...

Viên Cảnh sát thứ hai lục soát trong đống đồ một lúc lâu:

- Ba mươi lăm Đức kim, một đèn bấm, một ống điếu, một con dao, một cái lược bẩn, hết.

- Có giấy tờ gì không...

- Hai ba lá thơ hay cái gì giống như vậy.

- Giấy thông hành...

- Không.

Người Cảnh sát cầm súng lườm lườm:

- Giấy thông hành đâu...

Kern đáp gọn:

- Không có.

- Biết quá mà.

Rồi chĩa súng vào lưng người mặc áo sơmi, viên Cảnh sát đổi giọng:

- Còn mày, thông hành đâu... Bộ chờ tao dạy cho cách mở miệng hả...

Hai người lính nhìn nhau. Người không có súng phá lên cười. Người kia liếm môi rồi gằn từng tiếng một:

- Được lắm, coi đây, thằng du đãng, đồ ma cô…

Viên Cảnh sát bỗng ngưng ngang, tung một quả đấm như búa bổ vào cằm
người mặc sơmi. Suýt ngã té nhưng người mặc sơmi gượng lại rồi lặng nhìn
viên Cảnh sát. Kern chưa hề thấy một cái nhìn như thế.

Viên Cảnh sát gầm gừ:

- Không nói hả... Mầy còn đợi…

- Không có.

- Không có – người Cảnh sát nhại lại – Thấy không, nó bảo không có giấy thông hành. Đồ vô lại! Mặc đồ vào, mau lên!

Một toán Cảnh sát chạy rầm rập dài theo hành lang. Các cửa phòng bị đẩy bật tung ra. Một sĩ quan Cảnh sát tới:

- Chuyện gì đây...

- Hai tên này định bay qua mái nhà.

Viên sĩ quan nhìn hai kẻ bị bắt. Anh ta còn trẻ, mặt gầy và xanh mét,
râu mép được cắt tỉa cẩn thận và bốc mùi nước hoa. Kern nhận ra ngay đó
là loại nước hoa 4711. Gia đình Kern chế tạo nước hoa nên anh ta phân
biệt dễ dàng.

Viên sĩ quan ra lệnh:

- Phải đặc biệt để ý hai tên này. Còng chúng lại.

Người mặc áo sơmi đột nhiên hỏi:

- Cảnh sát thành Vienne có được quyền đánh đập những người bị bắt giữ không...

Viên sĩ quan đáp gọn:

- Còn nhiều quyền hơn.

- Thôi, đi!

Kern và người kia mặc quần áo vào. Người Cảnh sát không có súng móc còng ra:

- Lại đây, các con. Mang còng cũng như mang bao tay vậy thôi.

Thép chạm vào tay nghe lành lạnh. Lần đầu tiên Kern bị còng. Những vòng
thép không hề gây trở ngại lúc đi. Nhưng Kern có cảm tưởng như không
phải chỉ có hai cổ tay bị xích.

Bên ngoài, trời đã sáng mờ. Hai chiếc xe Cảnh sát dừng lại trước ngôi nhà. Steiner, người bị bắt chung với Kern – nheo mắt:

- Một đám tang thượng hạng, phải vậy không cậu bé...

Kern không trả lời, cố che đôi tay bị còng vào vạt áo. Một vài gã bán
sữa tươi tò mò đứng lại xem. Trong khuôn cửa tối mờ, một vài bóng người
xuất hiện. Có tiếng cười chế nhạo giọng đàn bà.

Khoảng ba mươi người bị bắt lên xe, những chiếc xe Cảnh sát không mui.
Hầu hết đều ngoan ngoãn trèo lên, trừ bà lão chủ nhà trọ, mập béo, trạc
năm mươi tuổi. Vài tháng trước, bà ta đã cho sửa sang đôi chút hai tầng
lầu trên của ngôi nhà tồi tàn thành một nơi ở trọ. Rồi tiếng đồn lan mau
là người ta có thể đến trọ nơi đó mà không cần có giấy tờ hợp lệ mà
cũng chẳng phải khai báo gì cả. Trong tất cả những người ở trọ chỉ có
bốn người khai báo: một gã bán hàng rong, một chuyên viên trừ chuột và
hai ả điếm. Những kẻ ở lậu chỉ trở về lúc ban đêm. Hầu hết đều là dân tị
nạn hay di dân từ Đức, Ba Lan, Ý và Nga tới.

Viên sĩ quan bảo bà chủ nhà trọ:

- Thôi lên mau đi. Chút nữa tới bót rồi giải thích.

Bà chủ nhà trọ rít lớn:

- Tôi phản đối.

- Được rồi, muốn phản đối bao nhiêu cũng được. Nhưng bây giờ thì phải lên xe.

Hai Cảnh sát viên kéo tay bà ta đẩy lên. Viên sĩ quan nhìn về phía Kern và Steiner:

- Coi chừng hai tên đó.

Steiner lên xe:

- Cám ơn.

Kern bước lên theo. Xe nổ máy. Một giọng đàn bà từ phía một cửa sổ kêu lớn:

- Vĩnh biệt, nghe!

Rồi một giọng đàn ông vang tới:

- Giết hết bọn di dân khốn nạn đó đi. Như vậy đỡ khỏi phải nuôi.

Xe chạy khá nhanh vì đường phố vẫn còn thưa vắng. Khoảng trời phía sau
các dãy nhà như lùi lại, đang bắt đầu sáng tỏ với màu xanh trong, nhưng
những người bị giam bó trên xe chỉ là một khối mờ ảm đạm như cành liễu
mùa thu. Một vài Cảnh sát viên gặm bánh mì thịt và uống cà phê trong
bình đựng nước.

Gần tới cầu Aspern, một chiếc xe rau cải băng qua đường. Các xe Cảnh sát
thắng gấp rồi gia tăng tốc độ. Ngay lúc đó, một người bị bắt trên chiếc
xe thứ hai nhảy xuống. Cả một thân người rơi phịch trên mặt đường.

Người tài xế hô to:

- Dừng lại. Bắn ngay, nếu nó chạy.

Chiếc xe thắng lết. Một số Cảnh sát viên trên xe nhảy phóc xuống, chạy
tới nơi. Gã tài xế quay nhìn ra sau. Thấy người kia vẫn còn nằm bất
động, hắn lui xe lại.

Người toan đào tẩu nằm ngửa giữa đường, gáy chạm vào một hòn đá. Ông ta
nằm đó, chiếc áo ngoài mở rộng, tay chân dang thẳng ra trông như một con
dơi khổng lồ vừa bị hạ. Viên sĩ quan hét lớn:

- Lôi nó dậy.

Hai người Cảnh sát khom xuống. Rồi một người đứng lên:

- Chắc gãy xương, hết đứng nổi nữa.

- Đứng không nổi hả... Lôi nó dậy.

Người Cảnh sát đánh Steiner lúc nãy thản nhiên bảo:

- Cho nó một đá là nó đứng dậy ngay.

Người nằn dưới đường rên nhỏ. Một Cảnh sát viên lắc đầu:

- Không dậy được đâu. Đầu ông ta chảy máu.

Gã tài xế xuống xe, càu nhàu:

- Quân ăn hại!

Rồi hắn ngước lên những người còn trên xe, trợn mắt:

- Ngồi yên nghe không! Đồ khốn kiếp! Rắc rối mãi!

Chiếc xe lúc đó đã đậu sát người bị thương. Từ trên nhìn xuống, Kern
nhận ra kẻ toan chạy trốn đó là một người Do Thái – Ba Lan ốm yếu, râu
xám bạc. Kern đã từng nhiều lần ở cùng phòng với con người già nua đó.
Anh còn nhớ hồi khuya, ông lão đứng bên cửa sổ lâm râm cầu nguyện với
một xâu bùa trên tay. Ông ta sống với nghề bán dạo các ống chỉ may, dây
nhợ, và đã từng bị trục xuất ba lần khỏi nước Aùo.

Viên sĩ quan hất hàm:

- Đứng lên! Tại sao nhảy xuống xe... Bộ sợ lắm rồi hả... Aên trộm hay giựt dọc...

Ông lão máy môi, mắt mở to nhìn viên sĩ quan.

- Sao, ông ta nói gì...

Người Cảnh sát đang quỳ một chân bên cạnh ông ta, đáp:

- Ông ta bảo là quá sợ.

- Sợ. Dĩ nhiên. Sao không bảo là đã giết cha, giết mẹ... Ông ta nói gì...

- Ông ta nói là chẳng làm gì đáng trách cả.

- Tất cả đều nói vậy. Bây giờ làm sao đây...

Từ trên xe, Steiner bảo:

- Phải gọi bác sĩ.

Viên sĩ quan lườm:

- Câm! Tìm đâu ra bác sĩ giờ này... Cũng không thể để nằm giữa đường. Rồi thế nào cũng có người đổ lỗi cho Cảnh sát.

Steiner lại nói:

- Nên đưa vào nhà thương. Cần đưa gấp.

Viên sĩ quan do dự vì biết rằng ông lão đang bị thương rất nặng nên quên nạt Steiner.

- Nhà thương! Họ không nhận đâu. Phải có giấy nhập viện. Trước hết còn phải làm phúc trình.

Steiner nói:

- Đưa vào bệnh viện Do Thái. Họ không cần giấy nhập viện, không cần phúc trình. Cũng không cần phải có tiền.

Viên sĩ quan nhìn anh ta không chớp mắt:

- Sao biết rõ vậy, hả...

Một Cảnh sát viên đề nghị:

- Nên đưa tới một trạm cứu cấp. Ở đó luôn luôn có y tá trực hoặc một bác sĩ. Họ sẽ lo những gì cần thiết, mình kể như phủi tay.

- Tốt, khiêng ông ta lên. Tới đó để một người ở lại canh. Đủ chuyện rắc rối.

Những người Cảnh sát đỡ ông lão dậy. Ông ta rên rỉ, mặt xám xịt. Họ đặt
ông lên sàn xe. Ông lão giựt mình, mắt mở to. Một cái gì khác thường
hiện ra trong ánh mắt, trên khuôn mặt thống khổ thù hận. Viên sĩ quan
cắn môi:

- Ngu quá! Từng tuổi đó mà còn dám nhảy trong lúc xe đang chạy. Thôi, nổ máy đi. Chạy từ từ.

Phía dưới đầu ông lão, máu từ từ đọng vũng. Những ngón tay trơ xương cào
nhẹ sườn xe. Môi lần lần co lại, lộ rõ mấy chiếc răng, trông giống như
phía sau khuôn mặt đang nhăn nhó vì đau đớn đó, một kẻ nào khác đang mỉm
cười câm lặng và khinh bạc.

Người Cảnh sát lúc nãy quỳ bên cạnh ông lão bây giờ lại quỳ xuống nâng
đầu ông lên cố giữ cho khỏi chạm vào sàn và xe nhồi lắc. Một lúc khá
lâu, người Cảnh sát nói:

- Ông ta bảo muốn đi tìm mấy con vì chúng nó sắp chết đói.

- Khùng, làm sao chết đói được. Chúng nó ở đâu...

Người Cảnh sát khom mình sát xuống rồi ngẩng lên:

- Ông ta không chịu nói, sợ chúng bị trục xuất vì không có giấy tờ cư trú.

- Lại kiếm chuyện. Ông ta nói gì nữa...

- Ông ta xin thiếu úy thứ lỗi.

Viên sĩ quan ngạc nhiên:

- Sao...

- Ông ta xin thứ lỗi vì đã gây phiền phức.

- Thứ lỗi, lại chuyện lạ gì nữa đây...

Viên sĩ quan lắc đầu, nhìn sững ông lão.

Xe dừng lại trước trạm cứu thương. Viên sĩ quan ra lệnh:

- Đưa ông ta vào. Nhưng phải coi chừng. Rohde, ở lại đây cho đến khi tôi điện thoại tới.

Một số Cảnh sát viên đỡ ông lão dậy. Steiner nghiêng mình tới:

- Ông già, chúng tôi sẽ tìm thấy mấy đứa nhỏ. Bọn này sẽ giúp chúng, nghe rõ không...

Ông lão nhắm mắt lại, rồi mở ra. Ba người Cảnh sát khiêng ông ta vào
trạm. Cánh tay người bị thương đong đưa, kéo lê trên thềm đường. Một lúc
sau, mấy người Cảnh sát trở ra và lên xe. Viên sĩ quan hỏi:

- Có nói thêm gì nữa không...

- Không. Hoàn toàn hôn mê. Nếu gãy xương sống, chắc không lâu.

- Kệ. Vậy là bớt đi một tên Do Thái.

Người Cảnh sát đánh Steiner lúc nãy vẫn nói giọng thản nhiên trong khi viên sĩ quan lẩm bẩm:

- Xin mình tha lỗi. Kể cũng lạ…

Steiner chen vào:

- Nhất là giữa thời buổi này.

Viên sĩ quan như chợt tỉnh:

- Có câm miệng lại không... Đợi khóa lại hả...

Những người bị bắt được giải tới Cục Cảnh Sát Elisabeth. Kern và Steiner
được tháo còng ra, đi theo những người kia vào một gian phòng rộng lớn,
chìm trong bóng tối. Hầu hết đều ngồi im lặng. Họ đã quá quen với cảnh
đợi chờ. Chỉ có bà chủ trọ mập mạp là không ngừng kể lể.

Chín giờ, từng người một được gọi đi. Kern bước vào mộ căn phòng có hai
Cảnh sát viên, một thư ký mặc thường phục, viên sĩ quan và ông Trưởng.

Cục Cảnh sát khá lớn tuổi. Ông trưởng Cục ngồi trên chiếc ghế dựa bằng gỗ, hút thuốc. Ông bảo viên thư ký:

- Lấy lý lịch.

Người thư ký gầy đét như một con cá hộp nhưng giọng to sang sảng:

- Tên họ...

- Ludwig Kern.

- Sanh ngày...

- 30 tháng 11 năm 1914 tại Dresde.

- Quốc tịch Đức...

- Không có quốc tịch. Người ta đã lấy lại.

Người Trưởng Cục nhìn Kern:

- Mới hai mươi mốt tuổi... Phạm tội gì...

- Không có tội gì cả. Người ta rút quốc tịch lại vì cha tôi. Lúc đó, tôi còn vị thành niên nên cũng bị rút luôn.

- Nhưng tại sao bị rút...

Kern không muốn trả lời ngay. Cả một năm di trú đã dạy cho Kern phải cân nhắc từng chữ trước khi trả lời.

- Người ta vu cáo cha tôi chống chế độ.

- Do Thái...

- Cha tôi. Không phải mẹ tôi.

- Aø hà!

Ông Trưởng Cục bùng tàn thuốc xuống đất:

- Tại sao cậu không ở lại nước Đức...

- Họ lấy giấy thông hành của chúng tôi lại và trục xuất. Nếu còn ở lại
đó, chúng tôi sẽ bị giam. Thà sống ở một nước ngoài còn tốt hơn.

Ông Trưởng Cục cười ra điều thích thú:

- Cũng phải… Nhưng cậu làm thế nào để vượt biên giới không có giấy thông hành...

- Vào lúc đó, chỉ cần có giấy cư trú là vượt được biên giới Tiệp Khắc và
sống trong vùng đó. Tôi vẫn còn giữ một tấm. Chứng chỉ đó cho phép
chúng tôi lưu trú tại Tiệp ba ngày.

- Và sau đó...

- Sau đó chúng tôi được cấp giấy lưu trú ba tháng. Hết hạn là phải đi ngay.

- Cậu tới Aùo bao lâu...

- Khoảng ba tháng.

- Tại sao không đi khai báo...

- Vì đi khai là bị trục xuất ngay.

- Aø! – Ông Trưởng Cục vỗ nhẹ vào tay ghế – Làm sao cậu biết rõ như thế...

Kern không muốn kể lại là anh và cha mẹ, lần đầu tiên vượt biên giới
Aùo, đã đến khai báo với nhà chức trách. Ngay trong hôm đó, cả ba đều bị
đuổi trở lại. chính vì vậy mà lần sau họ không khai báo nữa.

Kern hỏi lại:

- Nhưng không phải đúng như vậy sao...

Gã thư ký xẵng giọng:

- Không có quyền hỏi ngược lại.

Ông Trưởng Cục hỏi tiếp:

- Cha mẹ cậu đâu...

- Mẹ tôi đang ở Hunggari nhờ gốc gác Hung nên được cấp giấy lưu trú
ngay. Cha tôi bị bắt và bị trục xuất lúc tôi không có ở khách sạn nên
không rõ.

- Cậu làm nghề gì...

- Sinh viên.

- Sống bằng cách nào...

- Tôi còn một ít tiền.

- Bao nhiêu...

- Mười hai Đức kim. Còn một ít nhờ bạn bè giữ giùm.

Sự thật Kern không có quá mười hai Đức kim. Đó là tiền mà anh đã tìm
được nhờ bán dạo xà bông và nước hoa. Tuy nhiên, nếu nói rõ ra, Kern sẽ
bị phạt về tội hành nghề bất hợp pháp.

Ông Trưởng Cục Cảnh sát đứng lên ngáp dài:

- Thôi, xong chưa...

Gã thư ký đáp:

- Còn một tên nữa. Hay nói nhưng chẳng có gì.

Ông Trưởng Cục nhìn viên sĩ quan:

- Chỉ là những kẻ nhập cảnh lậu. Chắc không phải âm mưu của Cộng sản. Ai tố cáo...

- Một chủ nhà trọ khác. Cạnh tranh nghề nghiệp.

Ông Trưởng Cục cười to. Thấy Kern vẫn còn đứng đó, ông ta bảo:

- Thôi, xuống dưới đi. Chắc cậu đã biết là phải bị giam mười lăm ngày
rồi trục xuất – Ông ta lại ngáp dài – Phải kiếm cái gì ăn và uống một ly
bia cho tỉnh táo.

Kern bị đưa tới một phòng giam hẹp hơn lúc nãy. Ngoài anh ra, còn năm
người khác trong số có anh chàng Ba Lan cùng ở chung phòng trọ. Khoảng
mười lăm phút sau, Steiner được dẫn vào. Anh lại ngồi gần Kern.

- Lần đầu tiên bị nhốt hả cậu bé...

Kern gật đầu.

- Mới bị giam mà ủ rũ như một tên sát nhân à...

Kern mím môi:

- Cũng gần như thế. Nhà tù… tôi vẫn giữ những cảm nghĩ lúc trước.

Steiner lắc đầu:

- Cậu nên nhớ đây chưa phải là nhà tù. Chỉ mới bị câu lưu thôi. Nhà tù… còn phải chờ ít lâu.

- Còn anh, đã bị tù chưa...

- Rồi. Chỉ lần đầu là đã nếm đủ mùi và nhớ mãi. Nhưng về sau thì quen
đi. Đặc biệt là trong mùa Đông, hoàn toàn bình yên. Một người không có
thông hành là một bản án tử hình treo. Nếu không chịu đựng nổi chỉ còn
tự sát.

- Nhưng trường hợp có giấy thông hành... Có giấy thông hành cũng chưa phải là sẽ được phép hành nghề ở nước ngoài.

- Dĩ nhiên là không. Nhưng ít ra nhờ đó mà mình được quyền chết đói một cách bình yên. Khỏi phải lúc nào cũng nơm nớp sợ.

Kern nhìn sững một chỗ phía trước.

Steiner vỗ vai Kern:

- Ngẩng đầu lên, bé con! Cậu còn có hy vọng sống trong thế kỷ hai mươi, thế kỷ của văn minh, tiến bộ và tình người.

Một người nhỏ thó, sói đầu, ngồi trong góc phòng bỗng lên tiếng:

- Bộ họ không cho mình ăn uống gì hả... Cũng chẳng có cà phê.

Steiner quay lại:

- Cứ gọi tên hầu bàn là có ngay bốn món ăn. Cả trứng cá thu cũng có.

Anh chàng Ba Lan chắc lưỡi:

- Đồ ăn ở đây rrất rrất tệ.

Steiner nhìn anh ta:

- A, người của Jesus Christ. Quen ở tù rồi hả...

Anh chàng Ba Lan lặp lại:

- Rrất rrất tệ và rrất rrất ít…

Gã đầu sói nhăn mặt:

- Chết rồi. Tôi còn một con gà quay trong vali. Chừng nào họ thả mình ra...

Steiner thản nhiên:

- Trong vòng mười lăm hôm. Đó là giá biểu thông thường của những di dân
không có giấy tờ hợp lệ. Có phải vậy không, Jesus Christ...

Anh chàng Ba Lan xác nhận:

- Mười lăm ngày hoặc nhiều hơn. Rrất rrất ít đồ ăn. Rrất tệ, súp chỉ toàn là nước.

- Vậy là chết rồi. Con gà của tôi thiu mất. Trời! Hai năm mới có được
một con gà. Phải dành dụm từng xu. Định làm một phát ngon lành.

Steiner châm chọc:

- Hãy chờ tới tối rồi rên la. Cứ tưởng như ông bạn đã ăn rồi là đỡ khổ ngay.

Gã đầu sói nhìn Steiner, giận dữ:

- Sao... Bạn nói gì... Đừng lẩm cẩm chớ! Tôi còn định để dành một cái đùi cho sáng hôm sau.

- Vậy thì cứ chờ tới trưa mai.

Anh chàng Ba Lan chen vào:

- Với tôi thì không quan trọng. Không bao giờ ăn thịt gà.

- Dĩ nhiên là không quan trọng với bạn vì bạn làm gì có được con gà quay như tôi.

- Dầu cho có, cũng không quan trọng. Không bao giờ ăn thịt gà. Aên là
mửa – Anh chàng Ba Lan vuốt râu – Với tôi con gà là không quan trọng.

Gã đầu sói tru tréo:

- Ê, tôi không hỏi tới nghen!

Anh chàng Ba Lan thích thú:

- Ngay như con gà ở đây tôi cũng không ăn.

- Trời ơi, mấy người ở đây có ai nghe nói như vậy không – Người chủ con gà quay vừa nói vừa bụm mặt.

Steiner cảm hứng:

- Ông bạn Ba Lan là một triết gia gà. Nè, có ăn gà tiềm không...

Anh chàng Ba Lan quả quyết:

- Không.

- Gà nướng...

- Nhứt định không ăn gà.

Người chủ con gà quay chịu không nổi:

- Đừng làm tôi điên lên.

Steiner vẫn ung dung hỏi anh chàng Ba Lan:

- Nhưng còn trứng gà, có ăn không...

- Trứng gà hả... Trứng gà thì… tuyệt. Rrất rrất ngon.

- Lạy Chúa! Con gà vẫn có chỗ yếu.

Anh chàng Ba Lan phản đối ngay:

- Trứng gà rrất rrất ngon. Bốn, sáu, mười hai trứng: sáu trứng trụng
nước sôi, sáu trứng chiên sống. Thêm khoai tây chiên. Ưø, chiên với mỡ
heo.

Gã con gà rên rỉ:

- Im đi! Đóng đinh nó! Chịu hết nổi rồi!

Một âm thanh ấm và trầm pha lẫn giọng Nga từ góc phòng vọng ra:

- Xin quý vị bớt cãi vã về một vấn đề không có thực. Tôi đã lén đem vào
được một chai Vodka. Quý vị có vui lòng dùng chút ít không... Rượu sưởi
ấm trái tim và lắng dịu tinh thần.

Người Nga vừa nói vừa mở nút chai rượu. Ông ta uống một ngụm rồi trao
cho Steiner. Steiner cũng uống một ngụm rồi trao chai cho Kern. Kern lắc
đầu. Steiner bảo:

- Uống đi cậu bé. Phải tập thích nghi hoàn cảnh.

Anh chàng Ba Lan chêm vào:

- Rượu Vodka rrất rrất ngon.

Kern ngượng ngạo uống một ngụm và trao chai cho người Ba Lan. Anh chàng tu một hơi dài khiến gã Con Gà sợ hết vội giựt chai ra.

- Bộ uống hết một mình, hả...

Anh ta vội vã nốc nhiều ngụm rồi phân trần với người Nga:

- Thấy không, gần cạn chai rồi.

Người Nga tỏ ra lịch sự:

- Không sao. Tới chiều là tôi sẽ được tự do rồi.

Steiner hỏi:

- Thật à...

Người Nga hơi nghiêng đầu tới:

- Rất tiếc là tôi không hề nói dối. Là dân Nga nên tôi có giấy thông hành Nansen.

Anh chàng Con Gà bỗng lễ độ:

- Giấy thông hành Nansen. Như vậy ông bạn thuộc giai cấp quý tộc trong xã hội của những người mất quê hương.

Người Nga nhã nhặn:

- Xin chia buồn vì anh bạn không được may mắn lắm!

Steiner phản ứng:

- Có gì đâu. Các người đi trước và tới trước. Cả thế giới thương xót các
người vì các người chỉ là một con số ít so với bọn này. Thế giới cũng
thương hại bọn nầy nhưng càng ngày bọn này càng đông hơn nên trở thành
phiền toái.

Người Nga nhún vai rồi chìa chai rượu sang người cuối cùng trong phòng giam nãy giờ chưa lên tiếng.

- Xin ông vui lòng uống một ít cho ấm áp.

Anh chàng im lặng từ chối:

- Cám ơn, tôi không phải là người trong giới các bạn.

Tất cả đồng loạt quay nhìn hắn.

- Tôi có giấy thông hành còn hiệu lực, một tổ quốc, một chứng chỉ cư trú và một giấy phép hành nghề.

Tất cả đều tròn mắt. Người Nga thở ra và ngập ngừng:

- Xin lỗi… Nhưng tại sao ông bạn bị bắt...

- Vì nghề nghiệp. Tôi không phải là dân tịn nạn vô gia cư, không giấy tờ
hợp pháp. Tôi là chuyên viên móc túi biết tự trọng và cũng là một cây
bạc lận.

Buổi trưa, họ được cho ăn súp đậu nhưng không có đậu. Buổi chiều cũng
thế, nhưng được thêm một mẩu bánh mì và một ít cà phê. Tới bảy giờ, cửa
mở ra. Người Nga được gọi trả tự do đúng như ông ta tiên đoán. Ông ta
chào từ biệt từng người như đã là bạn chí thiết, rồi nói riêng với
Steiner:

- Trong mười lăm hôm nữa, tôi sẽ ghé quán Sperler. Có lẽ là bạn đã được thả và tới đó. Không chừng tôi sẽ có một vài tin hay.

Tới tám giờ, gã đánh bạc lận đã có vẻ muốn giao thiệp với những người
kia. Hắn lấy một bao thuốc lá ra mời. Tất cả đều vui trong khói thuốc.
Bóng tối và những đốm lửa đỏ trên đầu thuốc tạo thành một không khí gia
đình. Gã móc túi cho biết là đã bị bắt vì nhà chức trách muốn điều tra
xem trong vòng sáu tháng qua, anh ta có làm ăn một cú nào không. Vẫn
theo anh ta thì họ không tìm ra được một bằng chứng nào. kể chuyện mình
xong, anh chàng móc túi kiêm đánh bạc lận đề nghị chơi bài. Vừa nói anh
ta vừa nhanh như cắt cho xuất hiện một bộ bài trong tay giống như các
nhà ảo thuật.

Phòng tối om. Nhưng với tài nghề ảo thuật, gã móc túi lại cho xuất hiện
một cây đèn cầy và một bao diêm. Hắn gắn đèn cầy vào bờ tường. Aùnh đèn
nhòe nhoẹt và chập chờn.

Anh chàng Ba Lan, gã Con Gà và Steiner xáp tới. Con Gà dè dặt hỏi:

- Mình chơi không tiền, hả...

Gã đánh bạc lận cười:

- Dĩ nhiên.

Steiner hỏi Kern:

- Không chơi à...

- Tôi không biết đánh bài.

- Nên học chớ, cậu bé. Suốt buổi tối không chơi bài thì làm gì...

- Mai đã.

Steiner quay người lại. Ánh đèn mờ làm thành những vết lồi lõm trên mặt hắn.

- Có chuyện gì buồn sao...

- Chẳng có gì cả. Chỉ hơi mệt. Cần nằm một chút.

Gã đánh bạc lận bắt đầu xào bài với tất cả nghệ thuật của một tay điếm.
Hắn chìa bộ bài ra. Anh chàng Ba Lan rút một con chín, gã Con Gà kéo con
đầm, Steiner và gã đánh bạc lận mỗi người một con ách.

Gã đánh bạc lận ngước mắt:

- Kinh đi.

Hắn rút một lá. Lại một con ách. Hắn cười rồi đưa bài sang Steiner. Steiner kéo dưới bộ bài… một lá ách chuồn. Con Gà cười:

- Hên quá vậy!

Gã đánh bạc lận không cười. Hắn nhìn sững Steiner:

- Bạn cũng biết mấy trò nầy nữa à... Có phải người trong nghề không...

- Không. Chỉ chơi tài tử thôi. Biết được một tay thiện nghệ, cũng là điều hân hạnh.

Gã đánh bạc lận vẫn không rời mắt Steinter:

- Không phải vậy. Tôi muốn biết là vì chính tôi phát minh ra trò nầy.

Steiner dụi tàn thuốc:

- À, thật sao! Tôi học ở Budapest lúc bị giam.

Trước khi bị trục xuất. Do một người Katsher.

Gã đánh bạc lận thở ra khoan khoái:

- Katsher! Thế là đúng rồi. Katsher là học trò tôi. Bạn cũng khá lắm.

- Càng đi nhiều càng già dặn, thế thôi.

Gã đánh bạc lận trao một bộ bài cho Steiner rồi lên giọng:

- Thưa quí vị, ánh sáng rất tồi nhưng chúng ta chỉ chơi để giải khuây thôi. Thành thật mà nói…

Kern nằm dài, nhắm mắt. Một cơn buồn mờ mịt, dày như sương mù bao phủ
Kern. Cuộc thẩm vấn ban sáng khiến anh không ngớt nhớ tới cha mẹ. Đây là
lần đầu tiên sau một thời gian khá lâu, anh nhớ tới. Kern nhìn thấy lại
hình ảnh người cha khi ông từ trụ sở Cảnh sát về. Một người thương gia
cạnh tranh nghề nghiệp đã tố cáo cha Kern với Gestapo, cho là ông có tư
tưởng chống chánh quyền, nhằm mục đích phá hại cơ sở sản xuất nước hoa
và xà bông thuốc của ông để rồi sẽ mua lại cơ sở nầy với giá rẻ. Aâm mưu
đó đã thành công như hàng ngàn âm mưu khác. Sau sáu tuần bị giam, cha
Kern trở về như một cái xác không hồn. Ông không nói gì cả, lẳng lặng
bán lại cơ sở của mình cho gã gian thương đó với giá rẻ mạt. Tiếp theo
đó là lịnh trục xuất và một cuộc đào tẩu triền miên. Từ Dresde tới
Prague, từ Prague tới Brunn, từ đó họ vượt biên giới Aùo ban đêm, sáng
hôm sau họ bị đuổi sang Tiệp Khắc, rồi từ nơi nầy, vài hôm sau, họ lại
vượt biên giới sang thành Vienne trong khi mẹ Kern bị gãy tay và phải
cột lấy với một sợi dây lượm ở dọc đường. Từ Vienne họ sang Hunggari, ở
lại ông bà ngoại, rồi Cảnh sát tới. Kế đến là cuộc chia ly với mẹ vì bà
là người gốc Hung nên được cho ở lại. Lại tới Vienne lần nữa, bán dạo xà
bông, nước hoa, dây giày… hết nhà nầy sang nhà kia để đỡ đói – và cái
sợ dai dẵng của kẻ sống lậu, sợ bị tố cáo, sợ bị bắt… cho đến một đêm
người cha không trở về chỗ trọ, Kern sống một mình cả tháng, chạy trốn
từ nơi nầy sang nơi khác…

Kern lăn qua một bên, đụng phải một người. Nằm sát bên Kern là một khối
đen nhòa, một người khoảng năm mươi tuổi từ sáng tới giờ gần như không
buồn cử động.

- Xin lỗi, tôi không thấy.

Không có tiếng trả lời. Kern nhìn kỹ. Mắt ông ta vẫn mở. Kern biết rõ
trạng thái tinh thần ấy. Đã nhiều lần, anh chứng kiến cảnh tượng đó
trong một cuộc chạy trốn. Tốt hơn hết là nên để ông ta yên.

Thình lình Con Gà kêu lên:

- Mẹ, mình ngu quá! Ngu hết cỡ!

Steiner thản nhiên:

- Tại sao... Con đầm cơ là đúng rồi.

- Không phải vậy. Đáng lẽ phải nhờ thằng cha người Nga tới lấy con gà gởi vào. Ngu quá, ngu như con bò.

Hắn nhìn quanh với bộ điệu như trời sập đến nơi.

Kern bỗng thấy mình cười. Anh không muốn cười nhưng không dằn được. Anh
cười rung cả người, cười như điên. Cái gì đó đã khiến anh cười, quét
sạch tất cả, cơn buồn thảm, quá khứ và ưu tư.

Steiner rời mắt khỏi những lá bài, nhìn Kern:

- Cái gì vậy, cậu bé...

- Không biết. Tôi cảm thấy buồn cười không chịu nổi.

- Cười được là tốt.

Steiner vừa nói vừa kéo con già bích, thắng anh chàng Ba Lan ván đó.

Kern tìm một điếu thuốc. Tất cả đối với Kern bỗng thật đơn giản. Anh
quyết định sẽ học chơi bài ngày mai và có cảm tưởng là quyết định đó sẽ
thay đổi toàn diện cuộc sống của mình.


Nguyên tác tiếng Đức: Lieben Deinen Nächsten
Vũ Kim Thư dịch.
Về Đầu Trang Go down
https://duonghoalac-hoabinh.forumvi.com
Admin
Admin
Admin
Admin

Tổng số bài gửi : 1754
Điểm : 6794
Ngày tham gia : 22/12/2010
Tuổi : 38
Đến từ : Hà Nội
Level: 38 Kinh nghiệm: 1754%
Sinh mệnh: 1754/100
Pháp lực: 38/100

NGƯỜI ĐIỀU HÀNH
Phù hiệu: Bản du ca cuối cùng - Erich Maria Remarque POLLICE

Bản du ca cuối cùng - Erich Maria Remarque Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Bản du ca cuối cùng - Erich Maria Remarque   Bản du ca cuối cùng - Erich Maria Remarque Icon_minitimeThu Apr 14, 2011 7:46 pm

Chương 2

Năm hôm sau, gã đánh bạc lận được trả tự do. Người ta
không có bằng cớ để kết tội hắn. Hắn và Steiner chia tay nhau thân
thiết. Trong thời gian nầy, hắn đã dạy cho Steiner tất cả bí quyết cờ
bạc lận. Lúc đi, hắn tặng bộ bài cho Steiner, dạy cho Kern cách đánh
cách - tê, đánh bài jass, chơi Tarot và phé. Cách - tê là trò chơi của
di dân, bài jass là của người Thụy Sĩ, bài Tarot là để đánh với người
Aùo và phé để chơi trong các trường hợp khác.

Đúng mười lăm ngày, Kern được gọi lên văn phòng. Một sĩ quan đưa Kern
sang một căn phòng có một người đứng tuổi. Căn phòng trông to rộng đối
với Kern, ánh sáng chói chang khiến anh nheo mắt. Viên chức đứng tuổi
hỏi giọng lạnh lùng, mắt không rời chồng giấy tờ:

- Ludwig Kern, không quốc tịch, sinh viên, sanh 30 tháng 11 năm 1914 ở Dresde...

Kern gật đầu. Anh không thể nói được. Tự nhiên cổ họng anh như khô đặc.
Viên chức vừa hỏi, ngẩng đầu lên. Kern cố gắng lắm mới nói được hai
tiếng khàn khàn:

- Thưa phải.

- Anh đã đến Aùo không giấy tờ và không khai báo – Ông ta đọc nhanh hồ
sơ – Anh bị phạt 15 ngày giam, cho tới nay là vừa đủ. Anh sắp bị trục
xuất. Còn trở lại sẽ bị phạt nặng hơn. Đây, giấy trục xuất. Anh ký vào
và cam kết sẽ chịu tội nếu còn trở lại. Chỗ nầy, bên phải.

Kern nhìn người đứng tuổi đang đốt thuốc. Như bị thôi miên, mắt anh
không rời bàn tay nổi gân xanh của ông ta đang cầm diêm quẹt. Hai tiếng
đồng hồ nữa, con người nầy sẽ khóa cửa văn phòng lại và đi ăn, kế đó rất
có thể là ông ta sẽ chơi bài Tarot và uống một vài ly Heurigen, tới
mười một giờ ông ta sẽ ngáp dài, trả tiền rượu và tuyên bố: “Mệt rồi.
Tôi phải về để ngủ”. Về. Ngủ. Cũng vào khoảng giờ đó, trời tối mịt trên
những cánh đồng và những khu rừng biên giới. Bóng tối, xứ lạ, sự sợ hãi,
giữa những thứ đó, Ludwig Kern lạc lõng, cô đơn, lần mò từng bước, mong
mỏi tìm gặp một bóng người, lạc lõng và cô đơn như một tia lửa mỏng
manh, chập chờn đợi tắt. Và tất cả ngần ấy thứ xảy ra chỉ vì một mảnh
giấy được gọi là thông hành đang chia cách anh và viên chức đang buồn
ngủ bên bàn giấy. Máu của hai người luân lưu cùng một nhịp, mắt của họ
cũng như nhau, thần kinh của họ cũng phản ứng giống nhau, thế mà một vực
thẳm đang chia cách họ. Tất cả trong họ đều khác nhau, sự bình lặng của
người nầy là một mảnh giấy có ghi tên họ và một vài dấu hiệu riêng tầm
thường nào đó.

- Đây, bên phải. Tên và họ.

Kern tỉnh táo lại và ký tên vào.

- Anh muốn qua biên giới nào...

- Tiệp Khắc.

- Được. Chỉ còn có một tiếng đồng hồ nữa thôi. Sẽ có người đưa đi.

- Thưa, tôi còn một vài món đồ ở phòng trọ. Tôi xin được ghé qua để lấy đi.

- Đồ gì...

- Một vali quần áo.

- Được. Anh nói với nhân viên phụ trách áp giải ra biên giới, chắc sẽ được chấp thuận.

Kern trở lại phòng giam. Steiner được gọi lên.

Gã Con Gà tò mò:

- Chuyện gì vậy...

- Một tiếng đồng hồ nữa họ sẽ thả tôi ra.

Anh chàng Ba Lan kêu lên:

- Jesus Christ! Lại bắt đầu trốn chui, trống nhủi.

Con Gà hỏi người Ba Lan:

- Bộ bạn muốn ở đây mãi hả...

- Nếu đồ ăn tốt hơn và được cho làm việc chút chút như tội phạm thì sẵn sàng.

Kern dùng khăn tay phủi qua bộ đồ. Chiếc sơmi đã quá dơ sau mười lăm
ngày bị nhốt. Kern vuốt thẳng tay áo. Anh chàng Ba Lan nhìn Kern lo
chuyện áo quần, chép miệng:

- Chỉ một vài năm nữa là bạn sẽ bất cần tất cả.

Con Gà hỏi:

- Bạn định đi đâu...

- Tiệp Khắc. Còn anh... Hunggari hả...

- Không, tôi sẽ cố tới Praugue.

Một lúc sau, Steiner được dẫn trở lại phòng giam. Hắn hỏi Kern:

- Cậu có biết tên thằng đánh tôi, hôm tối mình bị bắt không... Leopold
Schafer. Hắn ở 27 đường Trautenaugasse. Tôi biết được khi họ đọc phúc
trình. Họ chỉ biết là thằng đó đã đánh tôi vì đe dọa nó – Steiner nhìn
vào mắt Kern – Đừng tưởng là tôi sẽ quên và địa chỉ của nó.

Kern đáp ngay:

- Dĩ nhiên là không.

- Đúng vậy.

Một Cảnh sát viên Tư pháp mặc thường phục tới kiếm Kern và Steiner. Tuy cố gắng che giấu nhưng Kern không khỏi xúc động.

Ra tới cửa, tự nhiên anh dừng lại. Cảnh tượng bên ngoài đang diễn ra
trước mắt anh giống như một luồng gió nhẹ từ phương Nam. Trời bắt đầu
tối nhưng các mái nhà vẫn còn phản chiếu mặt trời chiều, dòng sông
Danube lấp lánh. Ngoài đường xe cộ nối đuôi nhau chạy từ từ giữa những
đám đông người ra về giờ tan sở. Một nhóm thiếu nữ áo màu sặc sỡ đi qua,
sát bên anh. Kern có cảm tưởng như chưa bao giờ thấy cảnh tượng xinh
đẹp hơn thế nữa.

Viên chức Cảnh sát bảo:

- Thôi, đi chớ!

Kern giựt mình. Anh cúi gầm mặt xuống xấu hổ. Một người qua đường ngắm
anh từ đầu đến chân. Họ băng qua đường, người Cảnh sát đi giữa Kern và
Steiner. Các quán cóc bắt đầu bày bàn ghế trên vỉa hè và đâu đâu mọi
người cũng đều nói cười vui vẻ. Kern cúi mặt, bước mau hơn. Steiner nhìn
Kern với ánh mắt châm chọc thân tình:

- Ê cậu bé, tất cả những thứ đó không thuộc chúng mình, có phải không...

Kern mím môi:

- Không.

Họ tới nhà trọ. Bà chủ nhà tiếp họ với chút ít hờn giận pha lẫn xót
thương. Bà trao ngay cho họ những món đồ còn lại. Tất cả đều nguyên vẹn.
lúc còn ở phòng giam, Kern có ý định sẽ thay áo cho sạch sẽ nhưng bây
giờ, sau khi đã đi qua nhiều đường phố, anh thấy không còn cần thiết.
Kern đón lấy vali cám ơn bà chủ trọ và xin lỗi:

- Rất tiếc là bà đã gặp phải nhiều chuyện phiền phức.

Bà chỉ lắc đầu:

- Có gì đâu. Hy vọng là cậu sẽ bình yên. Và cả ông nữa, ông Steiner. Bây giờ các người đi đâu...

Steiner là một cử chỉ mơ hồ:

- Ra biên giới. Luồn lỏi trong rừng cây, bụi cỏ, như oai chí rận.

Bà chủ trọ ngập ngừng vài giây rồi đi thẳng tới một cái tủ bằng gỗ hồ đào đóng theo hình dáng một lâu đài phong kiến.

- Xin mời mấy người lại đây dùng chút rượu cho ấm trước khi lên đường.

Bà lấy ra một chai rượu rót vào ba ly. Steiner hỏi:

- Loại Slivovitz hả...

Bà chủ trọ gật đầu và trao cho một ly cho viên chức Cảnh sát.

Người Cảnh sát chùi râu mép:

- Chúng tôi chỉ làm nhiệm vụ thôi.

Bà chủ trọ rót cho ông ta thêm một ly nữa:

- Dĩ nhiên.

Và bà hỏi Kern:

- Cậu không uống à...

- Không dám uống. Bụng đói…

- Thật hả... – Bà nhìn đăm đăm vào mặt Kern – Trời đất ơi, còn nhỏ quá. Franzi đâu, cho một ổ bánh mì thịt.

Kern đỏ mặt:

- Cám ơn nhiều. Tôi không đói.

Cô gái giúp việc mang tới một khúc bánh mì lớn dồn thịt nguội. Bà chủ nhà bảo:

- Aên đi, đừng ngại gì cả.

Kern hỏi Steiner:

- Anh chia một nửa với tôi, nghe... Tôi ăn không hết đâu.

- Đừng mắc cỡ gì cả cứ ăn đi.

Chờ Kern ăn và uống xong ly rượu, hai người ra đi. Họ đi xe điện tới nhà
ga cửa Đông. Ngồi trên xe, đột nhiên Kern chán nản lạ lùng. Những dãy
nhà chạy lùi bên cửa xe giống như một giấc mơ. Rồi hãng xưởng, đường
phố, quán trọ với những cây hồ đào to lớn trước sân, những đồng cỏ,
những ruộng lúa đắm mình trong ánh hoàng hôn nửa vàng nửa tím. Kern đã
ăn khá đầy và cơn no thoả khiến anh như đang say nhẹ. Sức bén nhọn của
tư tưởng anh bỗng cụt lùn đi, chìm trong mộng. Kern thấy một ngôi nhà
trắng lẩn khuất trong những cây dẻ trỗ hoa, một đoàn người mặc lễ phục
và một nhà độc tài đang quỳ trước mặt mình, khóc lóc xin tha tội.

Khi họ tới trạm quan thuế thì trời đã tối hẳn. Người Cảnh sát giao Kern
và Steiner cho nhân viên quan thuế rồi bước mau trở về trong bóng tối ảm
đạm.

Một viên chức đang bận kiểm soát các xe đi về bên kia biên giới, nói:

- Còn sớm lắm. Tốt nhứt là phải đợi tới mười giờ rưỡi.

Kern và Steiner ngồi trên một chiếc ghế dài ngay trước cửa trạm, nhìn xe
cộ chạy qua. Một lúc sau, một nhân viên quan thuế đi ra. Kern và
Steiner theo người nầy. Họ vượt qua những đồng lúa, mùi đất đẫm sương
xông lên vừa nồng vừa thấm thiết. Họ đi qua một vài ngôi nhà rồi tới một
khu rừng. Vài phút sau, viên chức quan thuế đứng lại:

- Cứ tiếp tục đi tới nhưng nhớ đi sát bên trái để lẩn tránh trong các
bụi cây cho đến lúc tới sông Morava. Mùa nầy sông hơi cạn, có thể đi qua
dễ dàng.

Hai người tiếp tục đi. Cảnh vật yên lặng, chỉ có tiếng bước chân sột
soạt. Được một lúc, Kern quay nhìn lại. Bóng đen của viên chức quan thuế
nổi bật ở vòm trời. Ông ta vẫn còn đứng, nhìn theo. Kern và Steiner
tiếp tục đi.

Tới sông Morava, họ lột hết quần áo ra, quấn tất cả đồ đạc thành một
bọc. Nước sông lầy bẩn, phản chiếu một vài tia ngầu bạc. Trời ít sao
nhưng rất nhiều mây, thỉnh thoảng mặt trăng lại nhô ra. Steiner bảo:

- Để tôi đi trước. Tôi lớn hơn cậu.

Họ lội qua dòng sông cạn. Nước thấm vào thân Kern mát dịu và bí ẩn,
dường như nó không muốn buông tha anh nữa. Phía trước, Steiner vừa bước
vừa dọ dẫm. Hắn đeo bị trên lưng và đội quần áo trên đầu. Đôi vai to
rộng của hắn, dưới ánh trăng, trắng toát ra. Tới giữa sông, Steiner quay
lại. Kern cố bước mau hơn để tới gần. Hắn nhìn Kern gật đầu và cười.

Họ trèo lên bờ sông thoai thoải và hối hả lau khô người bằng khăn tay.
Họ mặc quần áo vào, tiếp tục đi. Một lúc sau, Steiner đứng lại:

- Mình đang ở một lãnh thổ khác.

Mắt Steiner ngời sáng ánh trăng. Hắn nhìn Kern:

- Cây cối có mọc lên khác hơn không... Gió có khác mùi không... Trên kia
có phải cũng chính là những vì sao đó không... Và con người khi chết có
khác nhau không...

- Không. Cố nhiên là không. Nhưng chính tôi, tôi thấy mình khác hẳn đi.

Họ tìm một chỗ ngồi dưới gốc cây già. Trước mắt họ một cánh đồng cỏ trải
dài nghiêng nghiêng. Xa xa, lốm đốm những ánh đèn của một làng Tiệp
Khắc. Steiner gỡ bọc trên vai xuống, tìm thuốc lá:

- Theo tôi thì một cái bị tiện lợi hơn một cái vali. Ít làm người ta chú ý. Họ chỉ tưởng mình là một kẻ đi tìm việc.

- Những người đi tìm việc cũng bị kiểm soát. Tất cả những gì phơi bày sự nghèo khổ đều bị kiểm soát. Chỉ có xe hơi là yên.

Hai người đốt thuốc, Steiner bảo:

- Khoảng một giờ nữa, tôi sẽ quay trở lại. Còn cậu...

- Tôi cố gắng tới Prague. Ở đó Cảnh sát không quá nghiêm khắc. Có thể
xin được một giấy cư trú vài hôm. Cũng có thể là tôi sẽ thấy ba tôi để
nhờ ông giúp. Nghe nói ba tôi cũnng đang ở Prague.

- Biết chỗ không...

- Không.

- Cậu còn bao nhiêu tiền...

- Mười hai Đức kim.

Steiner tìm kiếm trong túi áo:

- Đây, cần có thêm một ít nữa để dễ tới Prague.

Kern ngẩng đầu lên. Steiner thẳng thắn:

- Cậu cứ cầm lấy. Tôi còn đủ xài.

Trong bóng tối, Kern không thể biết rõ số bạc đó là bao nhiêu. Anh do dự một lúc rồi cầm lấy.

- Cảm ơn anh.

Steiner không đáp. Anh hút thuốc. Lửa thuốc rực đỏ khi Steiner hút vào
soi hồng khuôn mặt rắn rỏi của anh ta. Kern ngập ngừng hỏi:

- Tại sao anh cũng đi... Anh đâu phải là Do Thái...

Steiner im lặng một lúc khá lâu mới đáp:

- Không, tôi không phải Do Thái.

Có tiếng động ở phía sau. Kern giật mình, Steiner nói:

- Chắc một con thỏ nào đó. Bây giờ hãy ghi nhớ những gì tôi sắp nói mỗi
khi cậu thất vọng. Cậu ra đi, cha cậu cũng đi, cả mẹ cậu nữa. Tôi thì
khác, tôi đi nhưng vợ tôi vẫn còn ở Đức. Không một tin tức gì cả.

Lại còn tiếng sột soạt trong các lùm cây. Steiner dụi tàn thuốc và tựa
lưng vào cây dẻ gai. Gió bắt đầu nổi dậy, trăng treo lơ lửng ở cuối
trời, một màu trăng đục ngầu, vô cảm… giống như đêm hôm ấy, lần cuối
cùng…

Sau khi trốn khỏi trại tập trung. Steiner trốn luôn tám ngày trong nhà
một bạn thân. Anh ta ở luôn trên một cái gác khóa bên dưới, lúc nào cũng
sẵn sàng vượt mái nhà đào tẩu nếu có tiếng động khả nghi. Ban đêm,
ngừơi bạn mang cho anh ta bánh mì, đồ hộp và vài chai nước, đêm kế tiếp,
vài quyển sách. Steiner đọc tất cả và đọc lại lúc ban ngày. Sách cũng
là một thứ thuốc an thần. Anh không dám đốt lửa, không hút thuốc. Về
phần đại tiểu tiện, anh đã có sẵn một cái “pô” đặt trong một hộp giấy
bồi. Người bạn lấy xuống rồi lại đưa lên. Cả hai chỉ có thể thì thầm với
nhau vài câu thôi vì sợ những người giúp việc ngủ ở phòng bên cạnh nghe
và tố cáo.

Đêm đầu, Steiner hỏi:

- Marie hay chưa...

- Chưa. Nhà bị canh chừng.

- Có gì xảy ra cho vợ tôi không...

Người bạn lắc đầu và bỏ đi.

Steiner cứ hỏi mãi những câu ấy. Đêm thứ tư, người bạn cho biết đã gặp
vợ anh và đã nói cho biết cả rồi. Ngày mốt, người bạn sẽ gặp lại vợ anh
tại phiên chợ hằng tuần, giữa đám đông. Hôm sau, Steiner dành suốt ngày
để viết thư cho vợ. Tới tối anh xé đi. Anh ngại trường hợp bị theo dõi.
Steiner lưu lại thêm ba ngày nữa. Cuối cùng người bạn mang lên cho một
ít tiền, một vé xe lửa và một bộ quần áo. Steiner tụ cắt tóc lấy và gội
đầu bằng nước oxygénée cho tới khi tóc vàng hoe. Anh cũng không quên cạo
râu. Sáng hôm sau, anh rời nơi ẩn trú, mặc quần áo xanh, tay xách một
hộp dụng cụ thợ thuyền. Đáng lý phải rời thành phố ngay, anh lại muốn
gặp mặt vợ lần cuối. Hai năm rồi, cả hai chưa hề thấy mặt nhau. Steiner
đi ra chợ. Khoảng một tiếng đồng hồ sau Marie tới nơi. Steiner bắt đầu
run. Người vợ đi ngang qua chỗ anh nhưng không thấy anh. Anh vội vã bước
theo. Đến lúc đã tới sát phía sau người vợ Steiner khẽ bảo:

- Em đừng quay lại. Anh đây! Cứ tiếp tục bước như chẳng có gì xẩy ra.

Vai người thiếu phụ rung động, đầu hơi ngửa ra phía sau. Nàng vẫn bước
đều nhưng toàn thân, toàn thể tâm trí và tinh thần đều hướng cả về phía
sau.

- Người ta có làm khó dễ gì em không...

Người thiếu phụ lắc đầu.

- Có bị theo dõi không...

Nàng gật đầu.

- Ngay lúc này...

Nàng ngập ngừng… rồi lắc đầu.

- Anh phải đi ngay bây giờ. Anh sẽ cố gắng vượt biên giới. Không giám viết thư sợ nguy hiểm cho em.

Nàng gật đầu.

- Em nên làm đơn xin ly dị.

Tự nhiên, người thiếu phụ chậm chân luôn nhiều bước. Nhưng rồi nàng lại tiếp tục bước đều.

- Em phải xin ly dị. Phải lo ngay nội ngày mai. Cứ bảo là xin ly dị vì
bất đồng chính kiến với anh, có điều là trước kia em không hề biết như
thế. Em nghe rõ chưa...

Đầu người đàn bà không lay động. Nàng tiếp tục bước đi, thẳng đứng như người máy. Steoner van lơn.

- Nên hiểu cho anh. Anh chỉ muốn sao cho em được yên thân. Nếu em bị bọn
chúng làm hại bất cứ gì anh sẽ điên lên. Chỉ có ly dị là chúng mới để
em yên.

Người đàn bà không trả lời. Steiner nói qua kẽ răng:

- Anh yêu em, Marie. Anh sẽ không đi đâu cả nếu em không hứa. Em hiểu chưa...

Hắn nhìn chăm chú vào phía sau đầu vợ. Một lúc lâu, hắn có ảo giác như cợ hắn đã gật đầu.

- Em đồng ý hả...

Người đàn bà từ từ gục đầu ra phía trước, đôi vai cũng từ từ rũ xuống theo.

- Bây giờ anh quay trở lại và đi lên bên phía phải. Em đi bên trái,
ngược chiều với anh. Đừng nói gì cả, cũng đừng cử động. Anh chỉ muốn
được nhìn mặt em. Sau đó anh đi ngay. Nếu không có tin gì cả tức là anh
đã đi thoát an toàn.

Người đàn bà gật đầu và bước mau.

Steiner tách ra và đi lên theo lề chợ bên phải. Cả dãy lề nầy san sát
những gian hàng tạp hoá và những thớt thịt. Những bà nội trợ to tiếng
nổi tiếng trả giá. Những miếng thịt đỏ máu dưới ánh mặt trời. Mùi tanh
hôi ngọt ngạt. Các gã bán thịt vừa đối giá với người mua vừa oang oang
mời gọi khách hàng. Nhưng đột nhiên tất cả sự huyên náo đều biến mất.
Tiếng dao bằm trên thớt trở thành nhịp điệu dịu dàng của những lưỡi
liềm. Một cánh đồng hiện ra, đồng lúa, sự tự do, gió mát và những bước
chân của hai người yêu nhau. Tia nhìn của người nầy dán chặt vào sóng
mắt của người kia. Aùnh mắt… Chỉ có ánh mắt là nói lên tất cả, thống
hận, hạnh phúc, tình yêu và ly biệt. Aùnh mắt còn cho thấy dấu vết của
cuộc sống trên khuôn mặt sáng rỡ, dịu dàng và nồng nhiệt nhưng đồng thời
cũng diễn tả thật chính xác nỗi u uất và cơn xoáy lốc loạn cuồng của
hàng ngàn lưỡi dao cháy rực.

Họ cùng đi tới và cùng dừng khựng lại một lượt. Khoảng trống thình lình
và tàn nhẫn hiện ra trước mắt Steiner. Phải mất một lúc lâu, anh mới
phân biết được những màu sắc mà cách đó vài giây anh ta có cảm tưởng như
đang nhìn vào ống kính vạn hoa.

Steiner lại cất bước, trợt chân, rồi cố đi mau, thật mau để khỏi bị lưu
ý. Anh làm ngã đổ một nửa con heo bày trên một cái bàn phủ vải dầu. Lập
tức những tiếng chửi rủa thô tục nhứt đuổi theo sau. Anh bắt đầu chạy
tới một góc quanh rồi dừng lại, đợi chờ.

Steiner nhìn thấy vợ ra khỏi chợ. Nàng đi thật chậm. Tới góc đường, nàng
dừng lại, quay mặt về hướng chồng. Nàng đứng bất động như thế thật lâu,
mặt ngẩng cao, mắt mở to. Gió quyện vào người, y phục dán sát vào thân.
Steiner không rõ vợ có thấy mình không. Anh không dám lộ diện, lo ngại,
nếu không tự kềm chế nổi, vợ sẽ chạy bộ tới. Một lúc sau, nàng chấp tay
trước ngực rồi chìa cả hai tay ra về phía Steiner. Nàng muốn ôm lấy
chồng trong một khoảng không, mờ mịt đau xót, miệng mở to, mắt nhắm
nghiền. Rồi nàng từ từ quay người lại, và bóng tối con đường nuốt trửng
hình bóng một người.

Ba hôm sau, Steiner vượt biên giới. Đêm sáng nhòa nhòa, gió dậy từng cơn
và trăng đục màu vôi. Là một người quả cảm nhưng sau khi vượt biên
giới, toàn thân điểm mồ hôi lạnh, Steiner bỗng như một người điên. Anh
ta quay lại bên kia, gào to, gào to mãi, tên của người vợ thân yêu…

Steiner lấy một điếu thuốc nữa. Kern châm lửa.

- Cậu mấy tuổi... Steiner hỏi.

- Hai mươi mốt, sắp hai mươi hai.

- A, sắp hai mươi hai, cũng chẳng có gì lạ phải không...

Kern gật đầu. Steiner lặng im một lúc rồi bảo:

- Năm hai mươi mốt tuổi, tôi đã đi đánh giặc. Ở Flandres. Cũng chẳng có
gì lạ. Tình trạng hiện thời của mình còn tốt gấp trăm lần. Cậu hiểu
chớ...

- Hiểu – Kern quay người lại – Còn tốt hơn là chết. Tôi hiểu lắm.

- Thế là cậu hiểu khá nhiều rồi. Trước chiến tranh rất ít người biết được như vậy.

- Trước chiến tranh… Cách đây một trăm năm.

- Còn xa hơn nữa. Có lẽ từ khi có nạn đại hồng thủy. Năm hai mươi hai
tuổi, tôi nằm bệnh viện dã chiến. Ở đó, tôi học được khá nhiều. Cậu có
biết nhờ đâu không...

- Nhờ đâu...

Steiner hít một hơi thuốc:

- Tôi bị thương không nặng lắm. Một viên đạn xuyên qua thịt không đau
đớn mấy. Nằm bên cạnh tôi là một người bạn. Không phải là một kẻ quen
biết qua loa mà là một người bạn đúng nghĩa. Một mảnh đại bác rạch tét
bụng hắn. Hắn nằm đó kêu la. Không có morphin, cậu biết chớ... Ngay cả
với sĩ quan cũng không đủ. Qua ngày thứ hai, hắn đã khàn cả giọng nên
chỉ còn rên nho nhỏ. Hắn bảo tôi phải làm sao cho hắn chết thật nhanh.
Có thể tôi đã làm theo lời yêu cầu đó nếu tôi biết cách. Qua ngày thứ
ba, người ta bất ngờ cho tụi nầy món súp đậu. Súp đặc sệt và béo ngậy
như súp thời bình. Trước đó, họ chỉ cho tụi nầy có loại súp lỏng bỏng
như nước rửa dĩa. Tụi nầy nuốt ngấu ngay vì quá đói. Và trong khi tôi
đang ăn uống như ngây dại, tôi chợt nhận thấy mặt hắn như bị một bàn tay
vụng về nào đó xếp nhăn méo mó. Tôi biết hắn đang lịm chết trong những
cơn đau tàn khốc nhất. Hai tiếng đồng hồ sau, còn tôi… tôi no nê thỏa
mãn như chưa từng có trong đời.

Steiner ngưng nói. Kern không thể lặng im:

- Có lẽ tại các anh quá đói.

- Không phải vậy. Vấn đề là có một người chết bên cạnh mà mình thì chẳng
cảm thấy gì. Thương xót, dĩ nhiên là có… nhưng cơn đau, cơn đau nát
thịt tan xương thì mình không làm sao ghi nhận được. Bụng mình không bị
thương. Bên cạnh mình, trong tầm tay, một người bạn đang gào thét, rên
la và mình thì không một chút đau đớn nào. Đó chính là sự khả ố, sự khốn
cùng. Cậu nên nhớ điều đó. và cũng chính vì vậy mà thế giới tiến triển
rất chậm mà lại thoái hóa nhanh. Cậu có nhận thấy như thế không...

Kern thản nhiên:

- Không.

Steiner cười, cũng thản nhiên:

- Điều tôi vừa nói đã quá rõ và chính xác. Tuy nhiên, cậu có thể nghĩ lại khi có dịp. Ít ra nó cũng giúp cho cậu được chút ít.

Steiner đứng lên:

- Tôi đi đây. Tôi sẽ quay lại. anh chàng quan thuế không tưởng tượng
được là tôi còn quay lại. hắn chỉ lưu ý nửa giờ đầu. Tới sáng mai, hắn
lại mới canh chừng. Mình đi qua trong khoảng thời gian hắn không ngờ.
Tâm lý quan thuế. Rất may là chẳng bao lâu mà kẻ bị truy nã lại tinh
khôn hơn người truy nã. Cậu có biết tại sao không...

- Không.

- Chỉ vì cuộc tranh đấu sống còn mới thật sự là quan trọng – Anh ta vỗ
nhẹ vào vai Kern – Chính vì vậy mà người Do Thái tinh khôn nhứt thế
giới. Sự nguy hiểm tự nó mài giũa các giác quan, đó là luật sơ đẳng của
sự sống.

Anh chìa tay cho Kern. Bàn tay to lớn, khô và ấm.

- Cố gắng vượt mọi bất trắc. Tôi sẽ thỉnh thoảng tới quán Sperler. Cậu có thể hỏi thăm về tôi tại đó.

Kern gật đầu.

- Phải tự tin, làm hết sức mình. Đừng quên các môn bài. Chơi bài giúp
mình quên phiền muộn và không phải nghĩ ngợi. Đối với những kẻ vô gia
cư, đó là điều có thể chấp nhận. Cậu có vẻ hơi khá về môn bài Thụy Sĩ và
Tarot. Về phé, cậu phải liều hơn một chút. Phải biết thấu cấy.

- Được, tôi sẽ thấu cấy. Cám ơn anh về những sự giúp đỡ. Cám ơn tất cả.

- Cám ơn là điều mà cậu nên gạt bỏ ra ngoài thói quen. Mà cũng không nên
cứng nhắc. Việc đó có thể giúp ích. Không phải cho những người đã giúp
cậu mà chính là cho cậu. Nói được một lời cám ơn khi có dịp để cám ơn
cũng là giây phút ấm áp nhứt của cuộc đời. Và luôn luôn nhớ rằng mọi sự
tốt đẹp hơn chiến tranh.

- Và còn hơn là chết.

- Còn hơn là chết, tôi không biết. Nhưng còn hơn là chết chắc chắn. Giã từ cậu bé.

- Giã từ, Steiner.

Kern ngồi thêm một lúc khá lâu. Nền trời đã bắt đầu trong sáng, cảnh vật
yên tĩnh lạ lùng, không một sự hiện diện của loài người chung quanh.

Kern ngồi lặng yên dưới bóng cây dẻ gai. Tàng lá xanh trong trên đầu anh
phồng to như một cánh buồm căng gió, như trái đất bị gió đùa đi đang
bềnh bồng trong những khoảng không gian xanh vô tận, từ từ lướt qua ngọn
hải đăng của vầng trăng và các đèn báo hiệu của ngôi sao.

Kern quyết định tới Presbourg trong đêm rồi tiếp tục đi Prague. Thành
phố bao giờ cũng có một vài chỗ an toàn. Anh mở vali lấy một chiếc sơmi
sạch và một đôi vớ tốt để thay. Kern nghĩ đó cũng là điều cần thiết khi
chường mặt với đời. Ngoài ra, anh còn muốn lột bỏ cái ám ảnh của lao tù.

Lúc đứng lên, Kern chợt nhận có cảm giác kỳ lạ, trần truồng dưới ánh
trăng. Anh tự ví với một đứa trẻ bị bỏ rơi. Anh vội vàng mặc chiếc áo
vừa lấy ra, chiếc áo màu xanh. Dưới ánh trăng màu áo trở thành màu đục.
Anh mím môi, quả quyết với chính mình là không bao giờ nhu nhược nữa.
Về Đầu Trang Go down
https://duonghoalac-hoabinh.forumvi.com
Admin
Admin
Admin
Admin

Tổng số bài gửi : 1754
Điểm : 6794
Ngày tham gia : 22/12/2010
Tuổi : 38
Đến từ : Hà Nội
Level: 38 Kinh nghiệm: 1754%
Sinh mệnh: 1754/100
Pháp lực: 38/100

NGƯỜI ĐIỀU HÀNH
Phù hiệu: Bản du ca cuối cùng - Erich Maria Remarque POLLICE

Bản du ca cuối cùng - Erich Maria Remarque Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Bản du ca cuối cùng - Erich Maria Remarque   Bản du ca cuối cùng - Erich Maria Remarque Icon_minitimeThu Apr 14, 2011 7:47 pm

Chương 3

Kern tới Prague vào buổi chiều. Anh gởi vali tại nhà ga và
đi thẳng tới sở Cảnh sát. Kern không có ý định khai báo nhưng anh nghĩ
là cứ tới đó rồi tùy cơ ứng biến. Sở Cảnh sát là nơi tiện lợi nhất cới
những người như Kern. Ở đó không có Cảnh sát viên đi xét hỏi giấy tờ.

Kern ngồi trên một ghế dài ở hành lang. Phía trước là phòng ngoại kiều. Anh hỏi một người ngồi bên cạnh:

- Viên chức có râu càm còn ở đây không...

- Không biết. Người này không có râu càm.

- Vậy là đã có sự thay đổi. Họ đối xử ra sao...

- Tàm tạm. Họ có thể cho cậu giấy cư trú vài ngày một cách dễ dàng. Nhưng sau đó thì mọi việc đều khó khăn. Đông lắm rồi.

Kern suy nghĩ, nếu được phép lưu trú vài hôm, anh có thể nhờ ủy ban cứu
trợ nạn dân cấp cho một thẻ thực phẩm và cư trú tám ngày. Lần trước, anh
cũng làm như thế. Nhưng nếu bị từ chối quyền tạm trú, anh sẽ bị nhốt
rồi lại sẽ bị tống ra biên giới.

Người bên cạnh bảo:

- Tới phiên cậu.

Kern nhìn ông ta:

- Bộ ông không muốn xin trước sao... Tôi không cần gấp.

- Được, cậu chờ vậy.

Người đàn ông đứng lên, vào trong. Kern quyết định chờ xem người này
được đối xử ra sao rồi mới quyết định. Anh đi qua đi lại, ruột nóng sôi.
Cuối cùng, người đàn ông đi ra. Kern vội vã bước mau tới:

- Sao... Khả quan không...

Mặt người đàn ông sáng rỡ:

- Mười ngày. May quá! Và không hỏi han gì cả. Chắc ông ta đang vui hoặc bữa nay ít người. Lần mới đây, tôi chỉ được có năm ngày.

- Vậy tôi cũng thử xem.

Đúng là viên chức này không có râu càm. Dầu vậy, Kern vẫn nhận ra có nét
quen quen. Hay là cũng chính ông ta nhưng đã cạo bỏ bộ râu ấy đi rồi.
Ông ta đang mân mê một con dao nhỏ cán ngà và nhìn Kern với đôi mắt vô
hồn, mệt mỏi.

- Di dân...

- Vâng.

- Từ Đức tới...

- Vâng. Mới hôm nay.

- Có giấy tờ gì không...

- Dạ, không.

Người công chức nghiên đầu xuống. Ông ta gập lưỡi dao vào với một tiếng
cách gọn gẫy & kéo lưỡi giữa ra, bắt đầu đánh bóng móng tay cái.

Kern đứng chờ. Đối với Kern, dường như cái móng tay của người công chức
là vật trân quí nhất trên trái đất này. Kern cố thở nhẹ để khỏi làm
phiền và khiến ông ta tức giận.

Sau cùng móng tay cũng không còn chỗ nào cần đánh bóng hơn. Người công chức ngước lên nhìn Kern với vẻ thoả mãn:

- Mười ngày. Cậu có thể lưu trú mười ngày. Sau đó phải ra khỏi xứ ngay.

Thần kinh Kern tự nhiên giãn ra khiến anh tưởng mình sắp té. Tuy nhiên,
cũng trong giây phút đó, linh giác chợt loe sáng, Kern chụp ngay cơ hội:

- Thưa cám ơn ông. Nhưng nếu ông vui lòng cho thêm năm ngày nữa…

- Không thể được. Chi vậy...

- Tôi đợi giấy tờ gởi tới sau. Tôi rất cần có một địa chỉ chất định để
được đưa tới đó. Sau khi được giấy tờ, tôi sẽ đi qua Aùo quốc ngay.

Nói xong, Kern bỗng sợ mọi việc sẽ hỏng vào phút chót nhưng anh nghĩ là
mình đã nói dối khá mau và khá giỏi. Kern không bao giờ ưa nói dối nhung
anh cũng biết đôi khi nói dối là cần thiết.

Người công chức xếp lưỡi giũa vào cán dao.

- Thôi được. Mười lăm ngày, trường hợp ngoại lệ. Nhưng sau đó thì không còn gia hạn nữa cả.

Ông ta rút một tấm thẻ, bắt đầu ghi vào. Kern nhìn ông ta cắm cúi viết
như nhìn một thiên thần. Anh không tin hẳn là lại có thể may mắn đến
thế. Cho tới phút chót, Kern vẫn còn sợ ông ta lục lại hồ sơ và biết ra
mình đã hai lần trú ngụ tại Prague. Vì vậy Kern phải khai tên khác và
đổi luôn ngày và nơi sanh. Nếu bị cật vấn, anh sẽ bảo mình là một trong
những người trong họ.

Nhưng người công chức đã quá mệt để phối kiểm lại. Ông ta trao thẻ tạm trú cho Kern:

- Đây. Còn ai ở bên ngoài không...

- Thưa không. Lúc tôi vào, ngoài đó chẳng còn ai.

- Tốt.

Người công chức rút khăn tay và bắt đầu lau chùi cán dao bằng ngà. Ông
ta gần như không để ý tới lời cám ơn của Kern. Trong khi đó, Kern hấp
tấp bước ra, như sợ người công chức đổi ý, đòi giấy lại.

Kern đi một mạch mãi khi tới lề đường, anh mới đứng lại trước cửa một
cửa nhà, nhìn quanh quất! Quả thật có trời! Thế là mình thoát nạn. Trong
mười lăm hôm nữa chẳng cần phải sợ ai, mười lăm ngày đầy đặn trong đó
có mười lăm đêm yên lành, cả một vĩnh cửu!

Xin thượng đế ban phước lành cho người công chức có con dao cán ngà!

Một Cảnh sát viên đang đứng gần Kern. Tự nhiên anh cho tay vào sờ mảnh giấy thân yêu. Anh tiến tới trước người Cảnh sát:

- Mấy giờ rồi thầy đội...

Kern cũng có đồng hồ nhưng đây là cơ hội duy nhất để chứng tỏ anh không sợ Cảnh sát viên. Người Cảnh sát cầu nhàu:

- Năm giờ.

- Cám ơn.

Kern thong thả bước đi. Anh phải cố gắng lắm mới giữ được dáng điệu ung dung, bằng không thì đã chạy như điên.

Gian phòng khách to lớn của uỷ ban cứu trợ dân tỵ nạn đã đầy nghẹt những
người cũng không ngăn được một cảm giác trần truồng. Đây đó, từng nhóm
người xơ xác đứng, ngồi trông thiểu não như những bóng mờ. Gần như không
một ai mở miệng. Mỗi người đều đã từng nói đến số phận của mình cả trăm
lần. Họ chỉ còn có một khả năng duy nhất là chờ đợi. Đó là bức rào ngăn
cách cuối cùng giữa họ và sự tuyệt vọng.

Hơn phân nửa những người có mặt đều là dân Do Thái. Ngồi bên cạnh Kern
là một người đàn ông xanh mét, trán cao. Trên gối ông ta là một hộp vĩ
cầm. Một người khác cũng ngồi bên Kern là một ông lão trán móp với một
vết thẹo to. Hai bàn tay ông không ngớt nắm lại rồi mở ra. Kế đó là một
đôi thanh niên nam nữ, bấu chặt tay nhau dường như chỉ mọt phút rời ra
là họ sẽ bị người ta kéo lôi đi mỗi người một ngả. Cả hai không nhìn
nhau nhưng cùng nhìn vào một điểm nào đó trong khoảng không và trong dĩ
vãng, ánh mắt vô hồn. Phía sau họ, một người đàn bà to lớn đang khóc
lặng. Những giọt nước mắt lăn dài trên má, vòng xuống càm rồi rơi trên
áo. Bà ta không để ý và cũng không cố gắng ngăn cảm xúc. Hai bàn tay bà
bất động trên hai đầu gối.

Trong toàn thể cảnh tượng âm thầm và chịu đựng đau buồn đó, một đứa bé
nhởn nhơ đùa nghịch. Con bé khoảng sáu tuổi, linh hoạt, mắt sáng ngời
với những lọn tóc đen hết đi nơi này sang nơi khác.

Nó dừng lại trước một người trán cao, ngắm nghía ông ta rồi chỉ vào hộp vĩ cầm, hỏi với giọng kể cả:

- Ở trong có vĩ cầm, hả...

Người trán cao giựt mình, nhìn con bé một lúc dường như chưa kịp hiểu. Rồi ông ta gật đầu. Con bé bảo:

- Lấy ra coi.

- Chi vậy...

- Tôi muốn coi.

Nhạc sĩ vĩ cầm ngập ngừng vài giây, mở hộp lấy đàn ra. Cây đàn được bọc
trong một lớp lụa màu tím thẫm. Ông ta cẩn thận mở lớp lụa ra.

Con bé nhìn cây đàn thật lâu rồi đưa tay nhẹ vuốt dây đàn:

- Sao ông không đàn...

Nhạc sĩ không trả lời.

Con bé lại giục:

- Đàn đi!

Từ bờ tường đối diện, một thiếu phụ đang bồng một đứa bé sơ sinh, vội vàng gọi:

- Myriam. Lại đây, Myriam.

Con bé làm như không nghe, nói với nhạc sĩ trán cao:

- Bộ không biết đàn sao...

- Biết, biết chớ…

- Biết thì đàn đi.

Nhạc sĩ vĩ cầm bối rối nhìn đứa bé. Bàn tay thành thạo của ông ta bấu
chặt cây đàn. Sự chú ý của cả chục người chung quang càng làm ông ta
luống cuống hơn. Cuối cùng, ông ta bảo:

- Không thể đàn ở đây.

- Tại sao... Được mà. Cứ đàn đi, ở đây buồn lắm.

Bà mẹ đứa bé lại gọi:

- Myriam!

Ông lão có thẹo trán lên tiếng:

- Con bé có lý. Cứ đàn cho chúng tôi nghe một vài điệu nào đó để khuây lãng đôi chút. Chắc là người ta không cấm đâu.

Người trán cao vẫn do dự. Ông ta rút cần cung ra khỏi bao, đưa thẳng lên
rồi đặt đàn vào vai. Một âm thanh trong suốt vút lên như xuyên thẳng
gian phòng.

Kern có cảm giác như một bàn tay nào đó đang tách rời một vật gì đó ra
khỏi cơ thể của anh. Kern muốn cưỡng chống lại nhưng không đủ sức. Da
anh mọc ốc và như bị điện giựt lướt từng luồng. Nhưng rồi chỉ vài phút
sau, anh cảm thấy ấm áp lạ lùng.

Cửa văn phòng bỗng mở ra. Người thư ký ló đầu ra. Ông ta bước vào, vẫn
để mở cánh cửa văn phòng. Dường như định nói gì… nhưng ông chỉ nghiêng
đầu qua một bên tai lắng nghe. Từ từ và không tiếng động, cửa văn phòng
khép lại như bởi một bàn tay vô hình.

Bây giờ, chỉ còn sự hiện diện duy nhứt của tiếng vĩ cầm. Aâm điệu từ
lòng đàn nối tiếp nhau thoát ra tràn ngập không khí nặng nề và vô sinh
của gian phòng làm biến đổi tất cả, làm tan chảy nỗi cô đơn thầm lặng
của bao nhiêu sự sống còn bé nhỏ đang chập choạng trong vùng tranh tối
tranh sáng giữa bốn bức tường để làm thành một đại khúc thương ca xa xứ.

Kern bó gối trong vòng tay. Anh gục đầu xuống, thả hồn trôi trên sóng
nhạc. Anh có cảm tưởng như đang được một dòng suối cuốn đi, không bờ
bến, trở về chính mình hay tới một nơi nào đó hoàn toàn xa lạ. Đứa bé
gái ngồi xệp trên sàn nhà, câm lặng và bất động, mắt nhìn chằm chặp vào
bàn tay nhạc sĩ.

Tiếng đàn chợt im bặt. Kern biết chơi dương cầm và không đến nỗi tệ về
âm nhạc để nhìn nhận người chơi vĩ cầm đã đạt tới trình độ điêu luyện.

Ông lão có thẹo trán hỏi:

- Của Schumann...

Nhạc sĩ gật đầu. Đứa bé gái lại hối thúc:

- Đàn nữa đi. Đàn cái gì cho vui vui.

Bà mẹ đứa bé lại phải lên tiếng:

- Myriam!

- Được!

Người chơi vĩ cầm vừa nói vừa nắm lấy cần cung.

Kern nhìn chung quanh. Những cái đầu cúi xuống, những khuôn mặt ngẩng
lên… tất cả đều là sự buồn thảm, tuyệt vọng đang được dịu dàng chiếu rọi
bởi tiếng vĩ cầm. anh bỗng liên tưởng tới những gian phòng khác mà anh
từng trông thấy, cũng đầy kẹt những kẻ bị lưu đày chỉ vì phạm tội được
sanh ra và đã sống. Đúng vậy, những sự kiện đó đều có thật và nhưng
tiếng vĩ cầm ở đây cũng có thật. Khó mà tưởng tượng được! Đó cũng là một
niềm an ủi vô biên đồng thời cũng là một chủ đề trớ trêu chua xót. Kern
nhận thấy đầu người nhạc sĩ tựa vào đờn như gục vào vai của người yêu.
Mình không thể bị chìm đắm – Kern bỗng tỉnh táo – mình không thể phó mặc
cho may rủi bởi vì cuộc sống vừa dịu hiền lại cũng vừa rất dã man. Cuộc
sống là gì... Là một âm điệu nhẹ nhàng, một lời mời gọi, một tiếng thét
xé rừng hoang, một tiếng gầm chấn động những chân trời xa lạ của bóng
đêm quên lãng... Mình chỉ cần biết không thể chết, không muốn chịu chết.

Kern bỗng để ý đến sự im lặng trong phòng. Đứa bé hỏi:

- Bản gì vậy...

Người chơi vĩ cầm đáp giọng khàn khàn:

- Những vũ điệu Đức quốc của Franz Schubert.

Ông lão bên cạnh cười to:

- Vũ điệu Đức! – Ông đưa tay sờ vết thẹo trên trán – Vũ điệu Đức!

Người thư ký bật đèn lên:

- Xin mời người kế tiếp…

Kern lãnh được một giấy tạm trú tại lữ quán Bristol và mười phiếu khẩu
phần tại một quán ăn xã hội Wenzeloplaiz. Vừa nhận được các phiếu khẩu
phần, Kern tưởng như đói rã ruột đến nơi. Anh băng qua đường gần như
chạy vì sợ trễ giờ.

Kern không lầm, tất cả các chỗ trong quán ăn công cộng này đều đã có
người nên Kern đành chờ. Nhìn qua những người đang nhai nuốt ngấu
nghiến, Kern nhận ra một trong những giáo sư đại học cũ của mình. Anh
định đến nơi để chào thầy nhưng kịp nghĩ lại, anh đứng yên. Anh đã quá
hiểu rằng phần lớn những người tị nạn đều không muốn ai nhắc tới cuộc
sống ngày trước.

Một lúc sau, nhà vĩ cầm tới, bỡ ngỡ. Kern đưa tay ra hiệu. Nhà vĩ cầm
nhìn Kern với đôi chút ngạc nhiên, và từ từ đi tới. Tự nhiên, Kern đâm
ra bối rối. Đối với Kern chỉ cần nhìn thoáng qua, nhà vĩ cầm dường như
đã quen biết với anh từ lâu, thế nhưng mãi tới lúc này Kern mới nhận ra
là cả hai chưa hề nói với nhau lời nào cả.

Kern phân giải:

- Xin lỗi, lúc nãy tôi đã có dịp thưởng thức tài nghệ của ông. Có lẽ ông chưa quen với tục lệ ở đây...

- Vâng, tôi không biết gì cả. Còn cậu...

- Tôi thì hiểu rõ lắm vì đã từng đến đây hai lần rồi. Dường như ông rời xứ chưa được bao lâu...

- Mười lăm hôm. Tôi vừa mới tới hôm nay.

Kern thấy thầy cũ và người bên cạnh đang sữa soạn đứng lên. Anh nói mau:

- Có hai chỗ trống. Mình lại ngay.

Hai người len lỏi qua các dãy bàn. Người thầy cũ của Kern đi ngược lại. Ông nhìn Kern với vẻ nhớ mang máng.

- Hình như tôi có biết cậu...

- Thưa tôi là một trong số sinh viên của giáo sư.

- Thế à, tốt lắm. Em có biết chỗ nào cần máy hút bụi không... Bán hạ giá
mười phần trăm, cho trả góp. Hay là máy hát gắn liền với máy thu
thanh...

Trong phút bất thần, Kern giựt mình. Vị giáo sư là một nhân vật nổi tiếng về khoa sưu tầm và trị liệu ung thư. Kern xúc động:

- Thưa giáo sư không.

Vừa trả lời, Kern vừa cảm thấy thương hại vị giáo sư già vì anh thừa
biết nghề buôn máy hút bụi và máy hát đã tới hồi sa sút. Ông giáo sư lơ
đãng nhìn Kern:

- Cám ơn em, xin lỗi…

Và ông lách qua, bỏ đi luôn.

Bữa ăn chỉ có món súp và món bò. Kern chỉ ăn một loáng là sạch dĩa. Lúc
Kern ngẩng đầu lên, nhà vĩ cầm vẫn còn ngồi bên cạnh, hai bàn tay đặt
trên bàn, thức ăn còn nguyên. Kern ngạc nhiên:

- Ông không ăn à...

- Aên không được.

- Bịnh sao...

Kern nhìn vầng trán cao vọi của nhà vĩ cầm mà ánh đèn yếu diện làm cho vàng úa thêm ra.

- Không.

Kern khuyên:

- Ông nên ăn, phải ăn mới đủ sức.

Ông ta không trả lời, lấy thuốc ra châm lửa, hút vội vàng. Cuối cùng, ông ta lắp bắp:

- Không… không thể sống như thế nầy.

- Ông không có giấy thông hành...

- Có nhưng…

Nhà vĩ cầm dụi điếu thuốc với bàn tay run rẩy:

- Không thể sống như thế nầy. Sống chẳng có gì cả. Không có một mái nhà.

Kern chưng hửng:

- Sao vậy... Ông có thông hành lại có cả chiếc vĩ cầm…

Nhà vĩ cầm ngước mắt lên, giọng hơi xẵng:

- Nhưng có liên quan gì đâu. Cậu không hiểu thật chớ...

- Hiểu và hiểu rất rõ.

Kern thất vọng đến tận cùng. Anh nghĩ rằng một con người nghệ sĩ có
trình độ cao như thế ít ra cũng phải là một cá nhân ngoại hạng. Một
người ta có thể lấy đó làm gương. Nhưng bây giờ, trước mắt anh chỉ là
một kẻ thiếu tự tin, tuy lớn hơn anh khoảng mười lăm tuổi, giống như một
đứa bé cứng đầu. Kern nghĩ, chỉ mới giai đoạn đầu của cuộc đời xa xứ…
Và Kern bình tĩnh lại:

- Ông nhất định ăn...

- Không.

- Vậy thì cho tôi vì tôi hãy còn đói.

Nhà vĩ cầm đẩy dĩa súp sang. Kern ăn từ từ. Mỗi một muỗng là thêm một
nguồn lực để chống lại sự đói khổ, Kern nhứt định không bỏ mất một muỗng
nào.

Kern đứng lên:

- Cám ơn. Nhưng dầu sao tôi vẫn thích chính ông ăn lấy.

Nhà vĩ cầm nhìn Kern đăm đăm, trán nhăn tít:

- Cậu cũng vẫn chưa hiểu ra sao...

- Dễ hiểu hơn ông đã tưởng. Ông đang khổ sở. Chỉ có thế thôi.

- Chỉ có thế...

- Vâng. Lúc đầu ai cũng cho rằng mình đang ở trong một tình trạng bi đát
cực cùng. Nhưng rồi, sau một thời gian lưu lạc bềnh bồng, ông sẽ nhận
thấy sự khốn cùng chỉ là một trạng huống tầm thường nhứt trong xã hội
loài người.

Kern ra khỏi quán ăn xã hội. Anh ngạc nhiên khi thấy vị giáo sư già đang
bách bộ bên kia lề đường. Tay chắp sau lưng, người hơi khom người về
phía trước trông ông giống như những ngày chủ tâm giảng giải về một phát
minh mới lạ và tế nhị trong khoa trị liệu ung thư. Nhưng bây giờ có lẽ
ông đang ngĩ tới vấn đề chạy hàng để nuôi sống.

Kern ngập ngừng, anh không có ý định tiếp chuyện với thầy. Nhưng ngay
lúc đó, nhà vĩ cầm bước ra khiến Kern đổi ý. Anh bước qua đường, tới gần
người thầy cũ.

- Thưa giáo sư, tôi xin phép được thưa một việc. Không bao giờ tôi dám
nghĩ là trò có quyền khuyên thầy nhưng trong hoàn cảnh đặc biệt nầy
không biết giáo sư có vui lòng nghe một lời khuyên không...

Vị giáo sư đứng lại:

- Ồ, có gì đâu. Tôi sẵn sàng nghe. Và rất cảm kích đối với bất cứ lời
khuyên nào, và ông lơ đãng tiếp, xin ông vui lòng nhắc lại tên…

- Kern. Ludwig Kern.

- Rất cám ơn ông Kern, Cám ơn ông vô cùng.

- Thưa giáo sư, đây không hẳn là một lời khuyên mà chỉ là kết quả của
một chút kinh nghiệm sống. Giáo sư định bán máy hút bụi và máy hát để
lấy huê hồng. Xin giáo sư bỏ đi, chỉ mất thì giờ thôi. Đã có hàng trăm
dân di trú thất bại rồi. Cũng chẳng khác gì bảo hiểm sinh mạng.

- Ồ, đây cũng là việc mà tôi dự định sẽ làm tiếp nối. Có người cho tôi biết là dễ dàng lắm và có thể kiếm được chút ít.

- Chắc họ hứa là sẽ để giáo sư hưởng huê hồng trên mỗi hợp đồng...

- Phải. Huê hồng khá cao.

- Nhưng ngoài ra thì không sở phí, không lương hướng...

- Không, chẳng có gì khác.

- Tôi cũng có thể giao ước với giáo sư đúng y như vậy. Nhưng rồi chẳng
tới đâu. Xin lỗi, chẳng biết giáo sư đã bán được một máy hút bụi nào
chưa... Hoặc một máy hát...

Ông giáo sư nhìn Kern vừa bối rối vừa xấu hổ:

- Chưa, nhưng tôi hy vọng…

- Giáo sư nên từ bỏ ý định đó đi. Và đây là lời khuyên của một đứa học
trò luôn kính trọng thầy. Giáo sư hãy đi mua một mớ dây giày. Hay vài
hộp kẹp tóc, kim tây. Những món hàng nho nhỏ mà mọi người đều cần dùng.
Bán lại, mình sẽ chẳng lời được bao nhiêu nhưng có thể bán được nhiều.
Bán kẹp tóc, kim tây bao giờ cũng dễ hơn máy hút bụi.

Người thầy môn ung thư nhìn Kern đăm đăm:

- Đó là điều tôi chưa hề nghĩ tới.

Kern cười gượng gạo:

- Đối với giáo sư… kể cũng khó… Tuy nhiên, xin giáo sư nghĩ lại. Chính
tôi đã từng đi rao bán máy hút bụi và cuối cùng phải xoay sang chuyện
khác.

Ông thầy đại học suy nghĩ một lúc, bỗng chìa tay ra và giọng nói đột nhiên thấp xuống, run run, khiêm tốn:

- Ông có lý. Cám ơn ông nhiều lắm. Ông là người tốt…

Kern cắn môi:

- Tôi vẫn mãi là học trò của giáo sư.

- Thế à… Dầu sao cũng hết sức cám ơn ông … Ông…

- Tôi tên là Kern. Nhưng có gì mà giáo sư phải cám ơn.

- Có chứ, ông Kern. Rất quan trọng đối với tôi. Xin thứ lỗi, mấy lúc sau
này trí nhớ tôi tệ quá. Tôi sẽ cố làm theo lời ông. Cám ơn, cám ơn vô
cùng.

Lữ quán Bristol là một ngôi nhà hộp tồi tàn mà uỷ ban cứu trợ đã mướn để
cung cấp nơi tạm trú cho dân tị nạn. Kern được cho ở chung với hai
người khác trong một phòng. Mệt lả vì bữa ăn bất thường lúc tối nên vừa
lên giường là Kern ngủ ngay. Lúc anh tới, hai người ở trước đã đi ra
ngoài. Lúc họ trở về phòng, anh không hay biết.

Giữa đêm, Kern giựt mình thức dậy. Tiếp theo đó là những tiếng kêu la.
Như cái máy, Kern nhảy xuống giường, với lấy chiếc vai và quần áo, chạy
băng ra cửa.

Bên ngoài, tất cả đều yên tĩnh. Chạy tới cầu thang, anh dừng lại, đặt
vali xuống và nghe ngóng. Anh đưa tay vuốt mặt. Mình ở đâu dây... Chuyện
gì vừa xảy ra... Cảnh sát đâu...

Kern nhìn mình từ trên xuống dưới và khoan khoái. Mình đang ở Thủ đô
nước Tiệp tại lữ quán Bristol và trong túi lại có giấy cư trú mười lăm
ngày. Vậy thì có lý do gì phải sợ. Chắc lại là một cơn ác mộng.

Kern vừa quay lại vừa tự mắng, không được như thế, cứ hốt hoảng kiểu đó thì sẽ tàn.

Anh mở cửa phòng và mò mẫn trong bóng tối tìm chiếc giường của mình ở
phía bên phải sát tường. Anh nhẹ đặt vali xuống và máng quần áo ở thanh
sắt đầu giường. Lại mò mẫn, Kern định kéo chiếc mền lên. Thình lình,
ngay trước khi ngã người xuống nệm. Bàn, bàn tay anh bỗng chạm phải một
vật vừa mềm vừa ấm, phập phều theo hơi thở. Kern nhảy dựng lên.

Tiếp theo đó là giọng nói của một phụ nữ đang ngái ngủ:

- Cái gì vậy...

Kern nín thở. Anh đã vào lộn phòng. Mồ hôi anh tháo ra ướt áo.

Một lúc khá lâu, anh nghe có tiếng người thở dài rồi trở mình. Kern chờ
thêm vài phút nữa. Khi tất cả đều trở lại yên tĩnh và tiếng thở của
người nằm trong bóng tối đã điều hoà, Kern nhẹ nhàng thu dọn đồ đạc,
bước rón rén đi ra.

Một người đàn ông đang đứng ngoài hành lang ngay căn phòng của Kern.
Người nầy nhìn anh chăm chú qua tròng kính. Ông ta đã thấy Kern từ phòng
bên cạnh bước ra, tay xách vali. Kern quá bối rối để có thể giải thích.
Không một lời, anh bước vào phòng, nép mình một bên vì người đeo kính
cố ý không tránh đường. Kern lên giường nằm.

Người đàn ông vẫn còn đứng ở cửa. Cặp kính của ông ta loé sáng dưới ánh
đèn mờ của hành lang. Một lúc sau, ông ta trở vào, đóng cửa.

Ngay lúc đó, tiếng kêu la lại nổi lên:

- Đừng đánh! Đừng đánh nữa! Tôi lạy các ông… đừng đánh nữa… Trời ơi! …

Tiếng kêu kéo dài rồi chìm xuống lọc ọc trong cổ họng rồi tắt ngấm. Kern nhổm dậy:

- Chuyện gì vậy...

Có tiếng bật đèn và căn phòng sáng lên. Người đeo kính bước tới chiếc
giường thứ ba. Ở đó, một người đang vật vã, thở hổn hển, mình đẫm mồ
hôi, mắt lạc thần. Người đeo kính rót nước vào ly rồi kề vào môi người
đang nằm:

- Uống chút nước đi. Bạn lại nằm mơ. Chẳng có gì cả.

Người vừa mớ uống ừng ực. Trái cổ của y chạy lên chạy xuống. Y buông mình xuống như kiệt sức, nhắm mắt lại và thở hồng hộc.
Về Đầu Trang Go down
https://duonghoalac-hoabinh.forumvi.com
Admin
Admin
Admin
Admin

Tổng số bài gửi : 1754
Điểm : 6794
Ngày tham gia : 22/12/2010
Tuổi : 38
Đến từ : Hà Nội
Level: 38 Kinh nghiệm: 1754%
Sinh mệnh: 1754/100
Pháp lực: 38/100

NGƯỜI ĐIỀU HÀNH
Phù hiệu: Bản du ca cuối cùng - Erich Maria Remarque POLLICE

Bản du ca cuối cùng - Erich Maria Remarque Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Bản du ca cuối cùng - Erich Maria Remarque   Bản du ca cuối cùng - Erich Maria Remarque Icon_minitimeThu Apr 14, 2011 7:47 pm

Kern lại hỏi:

- Chuyện gì vậy...

Người đeo kính bước tới bên giường Kern:

- Chuyện gì... Một người nằm mơ và mớ to. Y vừa ra khỏi trại tập trung vài tuần. Thần kinh, bạn hiểu chớ...

Kern gật đầu. Người đeo kính hỏi...

- Bạn cũng ở phòng nầy...

Kern gật đầu:

- Có lẽ tôi cũng yếu thần kinh. Lúc nãy khi ông ấy kêu la, tôi hốt hoảng
bỏ chạy, tưởng Cảnh sát tới nơi. Và kế đó, tôi lại đi lộn phòng.

- Aø…

Người thứ ba lên tiếng:

- Xin lỗi. Tôi sẽ cố gắng không ngủ nữa.

Người đeo kính an ủi:

- Đừng nghĩ vậy. Bây giờ bạn có nói mê đến bao nhiêu lần, chúng tôi cũng không thấy phiền gì cả, phải không, người bạn trẻ...

Kern hiểu ý:

- Đúng vậy.

Đèn tắt. Căn phòng lại tối om. Kern nằm dài ra nhưng không sao ngủ được.
Cảm giác kỳ lạ, ngỡ ngàng lúc nãy ở phòng bên cạnh khiến anh vẫn còn
bàng hoàng. Bộ ngực thật mềm mại dưới lớp áo bằng loại hàng mỏng. Kern
không thể quên được… khoảng hơn nửa giờ sau, người nói mê, lồm cồm ngồi
dậy, xuống giường, tới ngồi trên bệ cửa sổ. Dáng người gục đầu vào ngực
nổi bật trên khung trời vào sáng khiến y trông như pho tượng một tên nô
lệ. Kern nhìn sững một lúc lâu vào pho tượng sống rồi ngủ thiếp lúc nào
không hay.

Joseft Steiner vượt biên giới rất dễ dàng. Là một cựu chiến sĩ, anh ta
từng quen những cuộc hành quân tuần thám. Trước kia, anh ta đã là chỉ
huy trưởng một đại đội và đã được ân thưởng bội tinh năm 1915 sau một
cuộc hành quân viễn thám, bắt được luôn một binh sĩ địch.

Khoảng một tiếng đồng hồ lau lách, anh ta hoàn toàn thoát hiểm, đi thẳng
tới nhà ga. Trên toa xe chẳng có bao nhiêu hành khách. Người bán vé
nhìn anh ta:

- Đã trở lại rồi à...

Steiner cộc lốc:

- Một vé đi Vienne.

Người bán vé vẫn một giọng:

- Đi cũng khá mau hả...

Steiner nhìn vào mặt anh ta.

- Bộ bạn tưởng tụi nầy không biết. Chuyện xảy ra hằng ngày mà. Tụi nầy
cũng thấy khổ. Lúc đi, bạn cũng ở trên toa nầy, chắc không nhớ nổi...

- Bạn định nói gì vậy... Tôi chẳng hiểu gì cả.

Người bán vé phì cười:

- Phải hiểu chớ. Thôi ra đứng ở cuối toa đi. Nếu có kiểm soát viên tới
thì nhảy xuống. Có lẽ giờ nầy ông ta không tới đâu. Như vậy đỡ tốn tiền
mua vé.

- Tốt lắm. Cám ơn.

Đứng ở chỗ giáp nối hai toa xe, Steiner nghe mát lạnh. Aùnh đèn từ các
làng trồng nho đua nhau chạy lướt qua. Anh tha hồ hít thở và tận hưởng
sự say sưa của không khí tự do, cảm thấy máu lưu chuyển mạnh và bắp thịt
như rắn chắc hơn.

Anh ta vẫn còn sống, không phải là tù nhân, vẫn sống và đã thoát hiểm.

Người bán vé ra cuối toa. Steiner đưa thuốc mời:

- Hút một điếu chơi bạn.

- Nhưng ngay bây giờ thì không có quyền. Giờ làm việc.

- Còn tôi thì được quyền chớ...

Người bán vé cười chất phác:

- Được. Bạn có ưu thế hơn tôi.

Steiner hít mạnh một hơi thuốc rồi cười:

- Ưu thế... Bạn nhận như vậy.

Anh ta đi thẳng tới nhà trọ cũ, nơi anh và Kern cùng bị bắt. Bà chủ trọ
vẫn còn ngồi ở bàn giấy. Vừa thấy Steiner, bà nhảy nhổm lên:

- Ông ở đây không được đâu.

- Được mà.

Vừa nói, Steiner vừa tháo bao đồ trên lưng xuống.

- Ông Steiner, Cảnh sát mà bắt gặp ông ở đây là nhà trọ của tôi sẽ bị đóng cửa luôn.

Steiner thản nhiên:

- Thưa bà Louise, hầm trú ẩn tốt nhất của con người trong chiến tranh là
một hố đại bác vì không bao giờ các xạ thủ có thể bắn đúng vào chỗ cũ
một lần nữa. Chính vì vậy mà nhà trọ của bà là một trong số các nơi an
toàn nhứt của thành Vienne.

Bà chủ trọ xỉa cả hai bàn tay vào mái tóc hung, bời rối.

- Ông cố tình làm hại tôi – Bà ta kêu lên bi thiết.

- Càng hay! Đó là điều mà tôi mong ước! Gây hại cho một người! Bà có vẻ giống nhân vật tiểu thuyết, Louisette.

Steiner nhìn quanh rồi hỏi:

- Còn chút cà phê nào không... Và rượu mạnh...

- Cà phê... Rượu mạnh...

- Phải, Louisette. Tôi biết bà hiểu tôi mà. Một người đẹp làm sao ấy! Rượu Slivovizt còn trong tủ không...

Bà chủ trọ nhìn Steiner, ngần ngại:

- Dĩ nhiên là còn.

- May quá. Đúng là thứ mình đang mong đợi.

Vừa nói Steiner vừa với tay lấy chai rượu và hai cái ly.

- Bà cũng dùng một ly chớ...

- Tôi...

- Còn ai vào đây...

- Không.

- Đừng từ chối, Louisette. Hãy cho tôi vui một hôm. Uống một mình, bất lịch sự. Đây…

Anh ta rót đầy ly rồi trao cho bà.

- Được. Tôi sẽ uống cho ông vui. Nhưng ông không ở đây.

Steiner dịu dàng:

- Chỉ vài hôm thôi, không hơn, không kém. Tôi có chương trình sinh sống rồi.

Uống xong ly rượu, anh ta lại cười lấy lòng:

- Và bây giờ là cà phê, Louisette.

- Cà phê... Làm gì có.

- Có mà, người đẹp. Đằng kia kìa. Tôi đánh cá là ngon tuyệt.

Bà chủ nhà trọ tuy tức nhưng không thể đừng cười:

- Ông đúng là nhà khôi hài xuất sắc! Tên tôi không phải là Louisette. Tôi là Thérèse.

- Thérèse, một cái tên trong mộng!

Bà chủ đi pha cà phê, mang lại. Bà chỉ vào một cái vali:

- Đồ của ông lão Seligmann vẫn còn đây. Tôi không biết phải làm gì.

- Phải ông lão Do Thái râu xám không...

Bà chủ gật đầu:

- Người ta nói là ông ấy đã chết…

- Chuyện cứ vẫn xảy ra như thế. Bà có biết con của lão ở đâu không...

- Làm sao tôi biết được... Tôi cũng không thể lo chuyện đó.

Steiner mở vali ra. Một lô cuồn chỉ màu rơi ra. Lẫn lộn trong các cuồn
chỉ là một mớ dây giày gói ghém cẩn thận. Tiếp theo là một bộ quần áo,
một đôi giày, một quyển kinh hébreu, một túi da nhỏ bên trong có ít
tiền, hai xâu bùa và một chiếc áo choàng trắng để mặc trong lúc cầu
nguyện.

Steiner nhìn lên:

- Qúa ít đối với một kiếp sống, phải không Thérèse...

- Nhiều người còn tệ hại hơn.

- Chí lý.

Steiner lật quyển kinh và bắt gặp mảnh giấy nhét bên trong bìa sách.
Steiner cẩn thận rút mảnh giấy nhét bên trong bìa sách. Steiner cẩn thận
rút mảnh giấy ra. Trên giấy có ghi một địa chỉ.

- Tốt lắm. Tôi sẽ tới đó. Cám ơn Thérèse. Tối nay tôi về trễ. Tốt hơn
hết là cho tôi một chỗ ở tầng dưới, sát với sân. Như vậy, khi cần tôi có
thể biến thật nhanh.

Bà chủ trọ toan phản đối nhưng Steiner đưa tay lên chận lại:

- Không. Không, Thérèse. Nếu cửa nhà trọ không mở tôi sẽ làm náo loạn cả
Cảnh sát thành Vienne. Nhưng tôi tin là cửa mở. Cung cấp chỗ trú ngụ
cho những người mất quê hương là một giáo điều của Đức Chúa Trời. Làm
như thế, khi về thế giới bên kia, bà sẽ được khen tặng luôn mười thế kỷ.
Xin gửi lại bao đồ.

Anh ta bước ra, biết là có nói thêm nữa thì cũng tới chừng ấy thôi và
anh còn hiểu rằng đối với những người thật sự văn minh thì gởi lại đồ
cũng là một cách trao tín vật, một lời giao ước. Bao đồ bây giờ đã biến
thành một biên lai ở trọ với sự hiện diện câm lặng của nó.

Steiner tới quán Sperler, định gặp người Nga Tchernikoff. Trong lúc bị
giam chung hai người hứa hẹn với nhau là một hay hai ngày sau khi
Steiner được trả tự do, cả hai sẽ đến quán nầy để đợi nhau. Về kinh
nghiệm mất quê hương, người Nga hơn những người Đức thời Hitler đến mười
lăm năm. Tchernikoff đã hứa với Steiner là sẽ cố gắng tìm xem tổ chức
nào tại Vienne có bán giấy tờ giả cho những di dân.

Steiner ngồi vào bàn. Anh ta muốn gọi thức uống nhưng không một gã hầu
bàn nào chú ý tới việc hỏi khách. Quán không có tục lệ bắt buộc khách
phải uống vì phần đông những người vào đây đều chẳng có bao nhiêu tiền.

Quán Sperler gần giống như các lều bán thức ăn trong những trại giam tạm
cư. Nhiều người ngồi trên ghế dài hay ghế đẩu ngủ gà, ngủ gật, một số
khác ngồi phệt dưới đất lưng dựa vào tường. Họ lợi dụng thời gian trước
giờ trước đóng cửa, vào đây ngủ khỏi trả tiền. Từ năm giờ sáng đến mười
hai giờ trưa, họ lang thang trên đường phố chờ quán mở cửa. Hầu hết
những người nầy đều thuộc thành phần trí thức.

Một người mặt tròn đầy ngồi cạnh, mặc áo carô, nhìn chăm chú Steiner một lúc khá lâu với ánh mắt hau háu. Hắn hỏi Steiner:

- Có gì bán không... Đồ vàng bạc cũ, nữ trang...

Steiner lắc đầu.

- Quần áo... Mền mùng... Giầy vớ...

Steiner lắc đầu:

- Nhẫn cưới...

Steiner trợn mắt:

- Đi ngay, đồ kên kên!

Steiner ghét cay ghét đắng những kẻ chuyên mua rẻ đồ đạc của dân tị nạn
để ban lấy lời. Để dằn cơn tức, Steiner gọi một gã hầu bàn:

- Ê, một cognac!

Gã hầu bàn nhìn hắn với vẻ nghi ngại nhưng cũng tới:

- Ông cần một trạng sư... Bữa nay có tới hai người. Trong góc kia là
Luật sư Silber của Toà Thượng Thẩm Bá Linh. Tham khảo ý kiến, một Đức
kim. Ở bàn tròn bên cửa là ông Epstein, cố vấn Tòa Sơ Thẩm Munich. Tham
khảo ý kiến, nửa Đức kim. Theo tôi thì nên hỏi Silber.

- Tôi không cần Luật sư mà là một ly cognac.

Gã hầu bàn che bàn tay sau vành tai:

- Xin lỗi, có phải ông gọi cognac...

- Đúng, và phải là ly lớn.

- Vâng. Xin lỗi, tôi hơi lãng tai. Vả lại, ở đây từ lâu không ai gọi gì khác hơn cà phê.

- Tốt. Vậy cho cognac và tách cà phê.

Gã hầu bàn làm đúng theo lời Steiner nhưng vẫn còn lẩn quẩn bên bàn. Steiner hỏi:

- Gì đây... Muốn xem tôi uống ra sao hả...

- Thưa, phải trả tiền trước.

- A, trả tiền trước… cũng được.

Steiner ném tiền lên bàn. Gã hầu bàn ngập ngừng:

- Ông đưa dư hơi nhiều.

- Còn dư bao nhiêu là phần của cậu.

- Tiền thưởng cho tôi...

Gã hầu bàn liếm môi như vừa được cho uống một ly rượu vang. Gã cảm động:

- Trời! Luôn mấy năm mới được thưởng một lần. Cám ơn ông. Cám ơn ngàn lần.

Vài phút sau, người Nga của Steiner bước vào.

Ông ta nhận ra ngay Steiner, đi thẳng tới:

- Tôi cứ tưởng là bạn không còn ở Vienne, Tchernikoff.

Người Nga cười:

- Với bọn mình thì điều gì có thể đều trở thành không thể có, và ngược lại. tôi vừa có một vài tin tức hữu ích.

Steiner uống cạn tách rượu:

- Nghĩa là có nơi chịu cung cấp giấy tờ...

- Phải. Giấy tờ tốt. Đây là loại giấy tờ tốt hơn tất cả các loại giấy giả mà tôi từng được biết.

- Tôi cần phải thoát ra cảnh nầy nghĩa là rất cần có giấy tờ. Thà bị tù
khổ sai vì xài giấy ma còn hơn là lo sợ nơm nớp hằng ngày chưa biết tới
chừng nào.

- Tôi vừa ở quán Hallebarde lại. Mấy người lo việc này hiện đang ở đằng
đó. Đáng tin cậy. Tuy nhiên rẻ mạt nhứt cũng trị giá tới bốn trăm Đức
kim.

- Nhưng với giá đó, mình sẽ được loại giấy gì...

- Giấy thông hành của một người Aùo từ trần. Còn hiệu lực một năm.

- Một năm. Và sau đó...

Tchernikoff nhìn Steiner:

- Mình có thể gia hạn ở một nước khác. Hoặc nhờ một nơi chuyên sửa đổi tháng, năm.

Steiner gật đầu.

- Ngoài ra còn hai giấy thông hành của hai người Đức tị nạn đã chết.
Nhưng mỗi tấm phải trả tới tám trăm Đức kim. Muốn có một thông hành hoàn
toàn giả ít lắm cũng phải tốn tới một ngàn rưỡi. Loại nầy thì bạn có lẽ
không vói tới.

Tchernikoff búng tàn thuốc:

- Trường hợp của bạn không nên quá tin tưởng Hội Quốc Liên. Nhứt là với
những người nhập cảnh bất hợp pháp. Nansen, chuyên lo thông hành cho bọn
tôi đã chết.

Steiner buông xuôi:

- Bốn trăm Đức kim! Hiện thời tôi chỉ có hai mươi lăm.

- Mình còn có thể trả giá!

- Con số cách biệt vẫn quá xa. Nhưng không sao, tôi phải tìm cách kiếm ra tiền. Quán Hallebarde ở đâu...

Người Nga lấy từ trong túi ra một mảnh giấy:

- Địa chỉ đây. Có ghi cả tên người hầu bàn làm trung gian. Khi cần bạn
bảo hắn điện thoại cho những người kia. Mình cho hắn năm Đức kim tiền
liên lạc.

- Được, tôi sẽ tùy trường hợp thu xếp.

Steiner cẩn thận cất giấy ghi địa chỉ.

- Cám ơn bạn vô cùng, Tchernikoff.

- Ồ, chẳng có nghĩa gì cả – Người Nga đưa tay lên phản đối – Mình phải
giúp nhau trong khả năng. Tình cảnh của bọn mình thì biết đâu người nầy
lại không có lúc nhờ tới người kia.

Steiner đứng lên:

- Một ngày nào đó, tôi sẽ gặp bạn tại đây để trả lời.

- Hay lắm. Tôi thường có mặt ở đây vào giờ nầy. Chơi cờ với Vua cờ miền
Nam Đức. Ông ta ngồi kia kìa, người tóc quăn. Không bao giờ tôi nghĩ là
sẽ có dịp đấu cờ với một nhà vô địch.

Tchernikoff cười:

- Tôi mê chơi cờ lắm.

Steiner đi ra, vấp phải chân một vài người đang ngủ dựa tường, miệng há
hốc. Ở bàn ông Cố vấn Tòa Sơ Thẩm Epstein, một mụ Do Thái mặt tròn phệu
đang chắp hai tay nhìn ngắm ông ta, như ngưỡng mộ một vị thần. Trước mặt
bà ta là nửa đồng Đức kim. Bàn tay trái đầy ông lá của Epstein đang đặt
trên bàn giấy như một con nhện to tướng đang rình mồi.

Ra tới ngoài, Steiner thở mạnh luôn nhiều hơi. Không khí dìu dịu ban đêm
khiến hắn ngây ngất sau khi đã ngột ngạt trong gian quán ám khói và
buồn thảm. Anh nghĩ, mình phải đi mới xong. Anh nhìn đồng hồ. Hơi muộn.
Dầu sao, cũng phải cố tìm gặp tay trùm cờ bạc lận.

Quán cóc mà gã chuyên đánh bạc lận thường lui tới gần như đã trống hẳn.
Hai thiếu nữ õng ẹo trên hai chiếc ghế đẩu cao nghệu trông giống như
những con kéc.

Steiner hỏi chủ quán:

- Fred có ở đây không...

Người chủ nhìn xoi mói Steiner:

- Fred... Bạn muốn làm gì anh ta...

- Để mời đi lễ, được không...

Người chủ quán suy nghĩ một lúc rồi bảo:

- Fred đi cả tiếng đồng hồ rồi.

- Còn trở lại không...

- Không biết.

- Được. Như vậy, tôi sẽ đợi. Cho một Vodka.

Steiner đợi gần một tiếng đồng hồ. Trong thời gian nầy, anh nhẩm tính
tổng quát về tất cả những món mà có thể bán ra tiền. Không quá bảy mươi
Đức kim.

Hai cô gái liếc nhìn anh. Họ ngồi đó thêm một lúc rồi õng ẹo đi ra. Người chủ quán ném mấy con xúc xắc ra. Steiner hỏi:

- Mình thử một bàn chớ...

- Cũng được.

Hắn gieo hột và Steiner thắng. Cả hai tiếp tục chơi. Luôn hai lần liên tiếp Steiner đều được bốn con một.

Steiner cười:

- Coi bộ tôi có duyên với số một.

- Chỉ chờ hên vậy thôi. Bạn tuổi gì...

- Không để ý.

- Chắc phải là tuổi Hải sư. Ít ra cũng có mặt trời trong Hải sư. Tôi
cũng biết chút ít về chiêm tinh. Một ván nữa, ván chót. Fred không trở
lại đâu. Không bao giờ trở lại giờ nầy. Hắn cần ngủ để tay khỏi run.

Người chủ quán gieo mấy con xúc xắc và Steiner lại thắng.

- Đúng chưa, tuổi bạn chắc chắn là Hải sư. Với ảnh hưởng mạnh của Hải vương tinh. Bạn sanh tháng nào...

- Tháng Tám.

- Vậy là chính xác rồi. Năm nay có nhiều may mắn lạ lùng.

- Trong trường hợp đó, tôi sẽ làm chúa tất cả các sư tử trong rừng –
Steiner uống cạn ly – Bạn vui lòng bảo với Fred là Steiner có tới đây.
Mai, tôi lại tới.

- Được rồi.

Steiner trở về nhà trọ. Đường phố hoàn toàn trống vắng. Trời có nhiều
sao và mùi hoa huệ thoảng ra từng đợt từ phía sau các bờ tường. “Trời,
Marie, mình không thể xa nhau mãi mãi”.


Kern bước vào một cửa hiệu bán thuốc Tây vì lúc đi qua anh chợt nhận
thấy có một số nước hoa bày bán mang nhãn hiệu của xưởng cha anh: hiệu
Farr.

Anh cầm chai nước hoa lật qua lật lại xem xét rồi hòi người bán:

- Ông mua thứ nầy ở đâu...

Người bán nhún vai:

- Làm sao nhớ nổi. Chỉ biết từ Đức tới. Mua lâu lắm rồi. Cậu muốn lấy chai nầy...

- Một chai... Không đủ. Cho tôi sau chai…

- Sáu...

- Phải. Lấy trước. Tôi sẽ tới lấy thêm. Tôi chỉ mua đi bán lại thôi, ông định cho hoa hồng bao nhiêu...

- Cậu là dân tỵ nạn...

Kern đặt chai nước hoa tắm gội lên quầy:

- Ông có biết hỏi như thế là chạm tự ái không... Tôi có chứng chỉ di trú đàng hoàng. Tôi muốn biết hoa hồng bao nhiêu...

- Mười phần trăm.

- Quá tệ. Ông tính xem tôi sẽ kiếm được bao nhiêu.

Người chủ tiệm vừa bước tới:

- Tôi cho cậu hai mươi lăm phần trăm. Chúng tôi cũng đang cần tống khứ loại hàng tồi tệ ấy đi.

Kern trợn mắt:

- Loại hàng tồi t65... Ông có biết đây là loại eaude cologne tốt nhất thế giới không...

Người chủ tiệm ngoái tai:

- Cũng có thể. Như vậy là cậu đồng ý hai mươi lăm phần trăm...

- Ba chục phần trăm là tối thiểu. Vấn đề nước hoa hảo hạng và tiền hoa hồng là hai chuyện hoàn toàn khác nhau.

Người bán hàng mím môi:

Nước hoa nào cũng vậy thôi. Thứ mà người ta cho là tốt chẳng có gì hơn là khéo quảng cáo. Tất cả bí quyết đều ở đó.

Kern nhìn sững anh ta:

- Ông nên nhớ là loại nước hoa đã không còn được quya3n cáo từ lâu. Và
nếu nói như ông, tôi đề nghị ba mươi lăm phần trăm hoa hồng.

Người chủ hiệu nói ngay:

- Ba mươi thôi. Thỉnh thoảng vẫn có người tới hỏi.

Gã bán hàng nói với chủ:

- Ông Bureck, mình có thể để ba mươi lăm phần trăm nếu cậu ta lấy đủ
chục. Người thỉnh thoảng đến mua cũng trả giá như thế. Lúc sau nầy, ông
ta không mua nữa mà ngỏ ý muốn bán cong thức chế tạo.

Kern giật mình:

- Công thức chế tạo... Người nào định bán...

Gã bán hàng cười:

- Ông ta bảo nhãn hiệu nầy là của chính ông ta. Dĩ nhiên là đặt điều. Có gì mà dân tị nạn lại không dám làm!

Kern tưởng chừng như nghẹt thở:

- Các ông có biết người đó ở đâu không...

Gã bán hàng nhún vai:

- Dường như ông ta có để lại địa chỉ nhưng hiện giờ thì không biết cất ở đâu. Cậu hỏi chi vậy...

- Có lẽ đó là cha tôi.

Cả hai sững sờ nhìn Kern:

- Thật à...

- Thật. Chúng tôi thất lạc nhau khá lâu.

Người chủ hiệu ra vẻ khích động. Ông ta quay vào gọi người đàn bà đang ngồi bàn giấy:

- Bertha, mình còn giữ địa chỉ của ông dịnh bán công thức chế tạo nước hoa không...

- Người nào...

- Ông Stan hay lão già lẩm cẩm cứ đến quấy rầy luôn...

- Nầy, nầy, đừng có ác mồm, ác miệng! Người chủ hiệu ngượng nghịu nhìn Kern - Xin lỗi cậu.

Ông ta đi mau vào phòng trong. Gã bán hàng kinh mạn:

- Đó là hậu quả của việc lấy người làm công.

Vài phút sau, người chủ hiệu thuốc quay ra, thở hào hển, với mảnh giấy trên tay:

- Tìm được địa chỉ rồi. Đó là ông Kern, Siegmund Kern.

- Vậy là cha tôi.

- Thật hả...

Người chủ hiệu đưa địa chỉ cho Kern:

- Lần sau cùng ông ấy tới đây cách nay ba tuần. Xin cậu vui lòng bỏ lỗi cho về mấy lời nói vô tình lúc nãy. Cậu cũng biết…

- Không sao cả. Nhưng tôi cần phải đi ngay. Tôi sẽ trở lại lấy nước hoa sau.

- Được ma. ø Chúng tôi giữ cho.


Nơi trú ngụ của cha Kern ở trên đường Tuzarova. Khu phố tối ám và mốc meo. Ở đây, người ta ngửi thấy mùi tường ẩm và khói than.

Kern từ từ lên thang lầu. Kể cũng lạ, tuy nóng lòng gặp cha nhưng Kern
cũng không gấp rút. Có lẽ vì anh đã qu1a quen thuộc với những bất hạnh
vào phút chót.

Tới lầu ba, Kern nhận chuông. Vài phút sau, có tiếng chân người kéo lê
phía sau cửa được kéo qua một bên. Kern nhìn thấy một con mắt đen chiếu
thẳng về phía mình.

Giọng hỏi gắt gỏng của một người đàn bà giọng ra:

- Ai đó...

- Tôi muốn gặp một người trong nhà.

- Không có người nào ở đây.

- Phải có chớ, còn bà có không phải đang ở sao... Kern nhìn tấm bảng gắn
ở cửa. Có phải bà là Melanie Ekowski không... Nhưng không phải tôi muốn
gặp bà.

- Rồi sao...

- Tôi muốo61no1i chuyện với một người đàn ông ở nhà nầy.

- Không có người đàn ông nào ở đây.

Kern nhìn vào con mắt tròn và đen. Hay là cha mình đã đi nơi khác. Tự nhiên, Kern mệt mỏi và chán nản lạ lùng.

- Người đàn ông tên gì...

Kern lại thấy hy vọng. Anh ngẩng đầu lên:

- bộ bà muốn tôi la lớn cho cả ngôi nhà nầy nghe sao... Bà cứ mở cửa, tôi sẽ nói.

Con mắt biến mất. Có tiếng khoá xích khua chạm. Kern không khỏi nhĩ, làm
gì mà kiên cố như một pháo đài. Anh tin hết chín phần là cha anh vẫn
còn ở đây, nếu không thì người đàn bà nầy không vặn đến thế.

Cửa mở, một người đàn bà Tiệp khoẻ mạnh, má đỏ, mặt lớn, nhìn Kern từ đầu đến chân.

- Tôi muốn gặp ông Kern.

- Kern... Không biết. Không có ở đây.

- Tôi hỏi ông Siegmund Kern. Tôi là Ludwig Kern.

- A…

Người đàn bà cũng chưa tin. Kern phải đưa giấy phép lưu trú cho bà ta
xem. Người đàn bà đọc tới, đọc lui như cố kéo dài thì giờ. Bà ta trả lại
tờ giấy cho Kern:

- Cậu là bà con...

- Phải.

Một cái gì đó khiến Kern không muốn nói rõ hơn. Bây giờ anh gần như tin chắc là cha mình có ở đây.

Người đàn bà nói cộc lốc:

- Ông ta không có ở đây.

- Được trong trường hợp nầy, tôi đưa địa chỉ cho bà. Tôi ngụ tại quán
Bristol, chỉ còn vài ngày nữa thôi. Tôi có chuyện cần muốn nói.
Về Đầu Trang Go down
https://duonghoalac-hoabinh.forumvi.com
Admin
Admin
Admin
Admin

Tổng số bài gửi : 1754
Điểm : 6794
Ngày tham gia : 22/12/2010
Tuổi : 38
Đến từ : Hà Nội
Level: 38 Kinh nghiệm: 1754%
Sinh mệnh: 1754/100
Pháp lực: 38/100

NGƯỜI ĐIỀU HÀNH
Phù hiệu: Bản du ca cuối cùng - Erich Maria Remarque POLLICE

Bản du ca cuối cùng - Erich Maria Remarque Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Bản du ca cuối cùng - Erich Maria Remarque   Bản du ca cuối cùng - Erich Maria Remarque Icon_minitimeThu Apr 14, 2011 7:47 pm

Chương 4

Kern bước vào một cửa hiệu bán thuốc Tây vì lúc đi qua anh
chợt nhận thấy có một số nước hoa bày bán mang nhãn hiệu của xưởng cha
anh: hiệu Farr.

Anh cầm chai nước hoa lật qua lật lại xem xét rồi hỏi người bán:

- Ông mua thứ nầy ở đâu...

Người bán nhún vai:

- Làm sao nhớ nổi. Chỉ biết là từ Đức tới. Mua lâu lắm rồi. Cậu muốn lầy chai nầy...

- Một chai... Không đủ. Cho tôi sáu chai…

- Sáu...

- Phải, lấy trước. Tôi sẽ tới lấy thêm. Tôi chỉ mua đi bán lại thôi, ông định cho hoa hồng bao nhiêu...

- Cậu là dân tị nạn...

Kern đặt chai nước hoa tắm gội lên quầy:

- Ông có biết hỏi như thế là chạm tự ái không... Tôi có chứng chỉ di trú đàng hoàng. Tôi muốn biết hoa hồng bao nhiêu...

- Mười phần trăm.

- Quá tệ. Ông tính xem tôi sẽ kiếm được bao nhiêu.

Người chủ hiệu vừa bước tới:

- Tôi cho cậu hai mươi lăm phần trăm. Chúng tôi cũng đang cần tống khứ loại hàng tồi tệ ấy đi.

Kern trợn mắt:

- Loại hàng tồi tệ... Ông có biết đây là loại eau de cologne tốt nhứt thế giới không...

Người chủ hiệu ngoái tai:

- Cũng có thể. Như vậy là cậu đồng ý hai mươi lăm phần trăm...

- Ba chục phần trăm là tối thiểu. Vấn đề nước hoa hảo hạng và tiền hoa hồng là hai chuyện hoàn toàn khác nhau.

Người bán hàng mím môi:

- Nước hoa nào cũng vậy thôi. Thứ mà người ta cho là tốt chẳng có gì hơn là khéo quảng cáo. Tất cả bí quyết đều ở đó.

Kern nhìn sững anh ta:

- Ông nên nhớ là loại nước hoa đã không còn được quảng cáo từ lâu. Và
nếu nói theo ý ông, tôi đề nghị ba mươi lăm phần trăm hoa hồng.

Người chủ hiệu nói ngay:

- Ba mươi thôi. Thỉnh thoảng vẫn có người tới hỏi.

Gã bán hàng với chủ:

- Ông Bureck, mình có thể để ba mươi lăm phần trăm nếu cậu ta lấy đủ
chục. Người thỉnh thoảng hay đến mua cũng trả giá như thế. Lúc sau nầy,
ông ta không mua nữa mà ngỏ ý muốn bán công thức chế tạo.

Kern giựt mình:

- Công thức chế tạo... Người nào định bán...

Gã bán hàng cười:

- Ông ta bảo nhãn hiệu nầy là của chính ông ta. Dĩ nhiên là đặt điều. Có gì mà dân tị nạn lại không dám làm!

Kern tưởng chừng như ngẹt thở:

- Các ông có biết người đó hiện ở đâu không...

Gã bán hàng nhún vai:

- Dường như ông ta có để lại địa chỉ nhưng hiện giờ thì không biết cất ở đâu. Cậu hỏi chi vậy...

- Có lẽ đó là cha tôi.

Cả hai sững sờ nhìn Kern:

- Thật à...

- Thật. Chúng tôi thất lạc nhau khá lâu.

Người chủ hiệu ra vẻ khích động. Ông ta quay vào gọi một người đàn bà đang ngồi ở bàn giấy:

- Bertha, mình còn giữ địa chỉ của ông định bán công thức chế tạo nước hoa không...

- Người nào... Ông Stran hay lão già lẩm cẩm cứ đến quấy rầy luôn...

- Nầy, nầy, đừng có ác mồm, ác miệng! – Người chủ hiệu ngượng ngịu nhìn Kern – Xin lỗi cậu.

Ông ta đi mau vào phòng trong. Gã bán hàng khinh mạn:

- Đó là hậu quả của việc lấy người làm công.

Vài phút sau, người chủ hiệu thuốc quay ra, thở hổn hển, với một mảnh giấy trên tay:

- Tìm được địa chỉ rồi. Đó là ông Kern, Siegmund Kern.

- Vậy là cha tôi.

- Thật hả...

Người chủ hiệu đưa địa chỉ cho Kern:

- Lần sau cùng ông ấy tới đây cách nay ba tuần. Xin cậu vui lòng bỏ lỗi cho về mấy lời nói vô tình lúc nãy. Cậu cũng biết…

- Không sao cả. Nhưng tôi cần phải đi ngay. Tôi sẽ trở lại kấy nước hoa sau.

- Được mà. Chúng tôi giữ cho.

Nơi trú ngụ của cha Kern ở trên đường Tuzarova. Khu phố tối ám và mốc meo. Ở đây, người ta ngửi thấy mùi tường ẩm và khói than.

Kern từ từ lên thang lầu. Kể cũng lạ, tuy nóng lòng gặp cha nhưng Kern
vẫn không gấp rút. Có lẽ vì anh đã quá quen thuộc với những bất hạnh vào
phút chót.

Tới lầu ba, Kern nhận chuông. Vài phút sau, có tiếng chân người kéo lê
phía sau cửa và miếng giấy bồi che kín lỗ hổng trên cửa được kéo qua một
bên. Kern nhìn thấy một con mắt đen chiếu thẳng về phía mình.

Giọng hỏi gắt gỏng của một người đàn bà vọng ra:

- Ai đó...

- Tôi muốn gặp một người trong nhà.

- Không có người nào ở đây.

- Phải có chớ, còn bà đó không phải đang ở sao... – Kern nhìn tấm bảng
gắn ở cửa – Có phải bà là Melanie Ekowski không... Nhưng không phải tôi
muốn gặp bà.

- Rồi sao...

- Tôi muốn nói chuyện với một người đàn ông ở nhà nầy.

- Không có người đàn ông nào ở đây.

Kern nhìn vào con mắt tròn và đen. Hay là cha mình đã đi nơi khác. Tự nhiên, Kern mệt mỏi và chán nản lạ lùng.

- Người đàn ông tên gì...

Kern lại thấy hy vọng. Anh ngẩng đầu lên:

- Bộ bà muốn tôi la lớn cho cả ngôi nhà nầy nghe sao... Bà cứ mở cửa, tôi sẽ nói.

Con mắt biến mất. Có tiếng khóa xích khua chạm. Kern không khỏi nghĩ,
làm gì mà kiên cố như một pháo đài. Anh tin hết chín phần là cha anh vẫn
còn ở đây, nếu không thì người đàn bà nầy không vặn hỏi đến thế.

Cửa mở, một người đàn bà Tiệp khỏe mạnh, má đỏ, mặt lớn, nhìn Kern từ đầu xuống chân.

- Tôi muốn gặp ông Kern.

- Kern... Không biết. Không có ở đây.

- Tôi hỏi ông Siegmund Kern. Tôi là Ludwig Kern.

- A…

Người đàn bà vẫn chưa tin. Kern phải đưa giấy phép lưu trú cho bà ta
xem. Người đàn bà đọc tới, đọc lui như cố kéo dài thì giờ. Bà ta trả
giấy tờ lại cho Kern:

- Cậu là bà con...

- Phải.

Một cái gì đó khiến Kern không muốn nói rõ hơn. Bây giờ anh gần như tin chắc là cha mình có ở đây.

Người đàn bà nói cộc lốc:

- Ông ta không có ở đây.

- Được. Trong trường hợp nầy, tôi đưa địa chỉ cho bà. Tôi ngụ tại lữ
quán Bristol, chỉ còn vài ngày nữa thôi. Tôi có chuyện cần muốn nói với
ông Siegmund Kern trước khi đi. – Anh nhìn lướt người đàn bà – Tôi muốn
trao cho ông ấy một vật.

- Hả...

- Bà nhớ giùm cho. Tôi là Ludwig Kern. Lữ quán Bristol. Xin chào bà.

Kern xuống lầu. Trời – anh nghĩ – làm gì mà lại có một mụ chẳng canh giữ
cẩn thận đến thế... Dầu sao, được canh giữ vẫn còn tốt hơn là bị tố
cáo.

Kern trở lại hiệu thuốc Tây. Người chủ hiệu tiếp đón anh vồn vã:

- Cậu có tìm được ông không...

Câu hỏi hấp tấp cho thấy cuộc sống của ông ta hoàn toàn thiếu vắng những yếu tố hấp dẫn. Kern hững hờ:

- Chưa. Nhưng cha tôi vẫn còn ở đó.

- Lý thú quá! Đúng là một trường hợp hi hữu!

Ông ta chống cả hai khuỷu tay lên bàn và nói một hơi về những trường hợp kỳ lạ mà ông ta đã nghe kể lại. Kern thở dài:

- Đối với chúng tôi, những trường hợp mà mọi người cho là đặc biệt lại
chẳng có chút gì là kỳ lạ cả. Đó chỉ là những tình cờ trong một cuộc đời
không trôi chảy bình thường. Aø, chúng ta nói chuyện về nước hoa đi.
Tôi chỉ còn đủ tiền để lấy sáu chai thôi. Như vậy ông cho hoa hồng bao
nhiêu...

Người chủ hiệu suy nghĩ một giây:

- Ba mươi lăm phần trăm. Một biến cố như thế nầy không phải ngày nào cũng có thể xảy ra.

- Cám ơn.

Kern trả tiền. Người bán hàng gói các chai eau de cologne lại. Người đàn
bà tên Bertha cũng có mặt để nhìn anh chàng vừa tìm lại được người cha.
Miệng bà ta cử động liên hồi dường như đang nhai một vật gì. Người chủ
tỏ ra tốt bụng:

- Nói thật, không phải đợi cậu nhắc, tôi vẫn biết trước rằng đây là loại nước hoa thượng hảo hạng.

Kern lấy gói hàng:

- Có thể tôi sẽ trở lại sớm để lấy thêm. Kern bước ra.

Kern trở về phòng. Anh lấyhai chai nước hoavà mấy bánh xà bông cho vào cặp định đem đi bán.

Vừa tới hành lang, anh chợt thấy có người từ phòng bên cạnh đi ra: một
thiếu nữ tầm vóc trung bình, cặp trong tay và quyển sách. Thoạt tiên,
Kern không chú ý vì đang bận nhẩm tính giá cả. Nhưng anh sực nhớ người
con gái đó đã đi ra từ căn phòng mà đêm qua anh vào lộn. Kern dừng sững
người lại. Anh có cảm tưởng là cô ta có thể nhận ra mình.

Kern xuống thang lầu và nhìn quanh nhưng không thấy thiếu nữ lúc nãy ở
đâu. Anh ra cửa nhìn hai đầu đường. Chỉ có mấy con chó lớn đang đùa nhau
ở vỉa hè.

Kern quay vào. Anh hỏi người gác cửa:

- Có ai vừa đi ra không...

- Có, chính anh.

Gã gác cửa nhìn chăm bẳm vào Kern để đợi những tiếng cười thưởng thức câu nói đùa mà gã tự thấy rất có duyên.

- Tôi muốn hỏi một bà. Không, một thiếu nữ.

Gã gác cửa trả thù vặt:

- Ở đây không có bà nào cả, chỉ có đàn bà.

- Nhưng, có người mới đi ra.

- Bộ anh là Cảnh sát sao mà điều tra dữ vậy...

Nghe giọng điệu hằn học của gã gác cửa, Kern không khỏi ngạc nhiên. Lúc
nãy vì quá bận tâm về cô gái, anh không để ý đến lời nói đùa của gã.

Kern lấy bao thuốc lá ra và mời gã một điếu.

- Cám ơn, tôi chỉ hút loại đắt tiền hơn.

- Thật không...

Kern cho bao thuốc vào túi. Anh đứng đó nghĩ ngợi. Thiếu nữ chắc còn ở bên trong, tại phòng khách. Kern đi tới đó.

Phòng khách của lữ quán tuy hẹp nhưng dài, phía trước là một cái sân
tráng xi măng giáp nối một khoảng vườn có tường bao quanh. Trong vườn có
vài bụi tử đinh hương.

Kern nhìn qua cửa kính. Anh thấy cô gái đang ngồi đọc sách, hai khuỷu
tay chống lên bàn. Ngoài thiếu nữ ra không còn một ai khác. Kern đẩy cửa
bước vào.

Cô gái nghe tiếng động ở cửa, ngước mắt lên. Kern lúng túng. Anh ngập ngừng:

- Chào cô.

Cô gái nhìn Kern, gật đầu đáp lời chào rồi tiếp tục đọc.

Kern ngồi trong một góc phòng. Vài phút sau anh đứng lên đi tìm một vài
tờ báo. Anh tự trách đã có thái độ ngớ ngẩn và muốn biến mất ra ngoài.
Tuy nhiên, dường như anh không còn đủ can đảm để bước đi.

Kern giở báo ra đọc. Anh thấy thiếu nữ mở bóp ra. Cô ta lấy một hộp đựng
thuốc lá bằng bạc, mở ra rồi đóng lại ngay, cho vào bóp, không lấy một
điếu thuốc nào.

Kern hối hả đặt tờ báo xuống và bước lại:

- Dường như cô quên mang thuốc theo. Tôi có thể mời một điếu...

Kern lấy bao thuốc ra. Anh ước ao có một cái hộp để cho những điếu thuốc khỏi phải cong queo như hiện thời. Anh chìa bao thuốc:

- Tôi không biết cô có thích loại thuốc nầy không. Anh gác cửa vừa mới từ chối, cho là loại rẻ tiền.

Thiếu nữ nhìn nhãn hiệu thuốc:

- Tôi cũng hút thuốc loại nầy.

Kern cười ngượng nghịu:

- Dầu sao cũng rẻ hơn các loại khác. Nói như thế cũng như tự thú nhận.

- Theo tôi thì chỉ một việc tới ở tại lữ quán nầy cũng đã đủ nói lên tình trạng tài chính.

- Đúng vậy.

Kern châm lửa cho thiếu nữ. Aùnh lửa yếu ớt soi hồng một khân mặt thon
thon và đôi chân mày hung hung, đôi mắt to và sáng, mội dầy và dịu. Kern
không thể nói là thiếu nữ có đẹp hay không nhưng dừng như có một sợi
dây vô hình và xa xôi nào đó đang kéo lôi anh về phía cô gái. Anh đã đặt
tay lên ngực cô ta trước khi biết mặt. Anh đã nghe, đã… sờ mò hơi thở
của cô ta. Và như lại sợ lầm lần nữa, anh ta cho tay vào túi.

Kern tự trấn tĩnh câu hỏi:

- Cô rời quê hương bao lâu rồi...

- Hai tháng. Cũng chưa lâu. Nhưng vô tận.

Kern ngạc nhiên nhìn lên:

- Cô có lý. Hai năm kể như chẳng lâu bao nhiêu. Nhưng hai tháng thì vô
tận. Có điều lợi là khi thời gian càng kéo dài thêm ra thì người ta có
cảm tưởng như tháng ngắn lại.

- Theo anh thì tình trạng nầy kéo dài chừng bao lâu...

- Tôi không có ý niệm nào cả. Đó là điều mà tôi không còn muốn nghĩ tới.

- Trái lại, tôi cứ nghĩ mãi không thôi.

- Trong hai tháng đầu tiên, tôi cũng không khác gì cô.

Cô gái không nói nữa. Nàng cúi đầu xuống, từ từ hút từng hơi thuốc dài.
Kern đứng nhìn mái tóc đen đang bao quanh khuôn mặt. Anh muốn nói một
lời ý nhị nào đó nhưng không tìm ra ngôn ngữ. Anh cố gắng moi trí nhớ để
biết thêm trong những trường hợp tương tự, các nhân vật điển hình mà
anh thườnhg đọc qua đã có thái độ thích hợp nào. Nhưng trí nhớ đã khô
cạn. Và có lẽ là những nhân vật đó không hề tới trú ngụ tại những lữ
quán rẻ tiền dành riêng cho dân tỵ nạn.

- Hơi tối mà cô vẫn đọc được sao...

Thiếu nữ giật mình như vừa bị kéo lôi ra khỏi một cơn mê. Nàng gấp quyển sách lại.

- Không. Tôi hết muốn đọc sách rồi. Chẳng giúp ích gì cả.

- Ít ra đó cũng là một loại thuốc an thần. Khi nào vớ được một quyển sách trinh thám là tôi đọc luôn một mạch.

Cô gái cười mệt mỏi:

- Không phải tiểu thuyết trinh thám. Đây là quyển hoá học kháng chất.

- A! Cô theo đại học...

- Ở Wurtzbourg

- Tôi thì ở Leipzig. Lúc đầu tôi cũng mang sách luôn bên mình. Tôi muốn
ôn lại. Nhưng sau đó tôi bán cả đi. Mang vừa nặng vừa bất tiện. Tôi dùng
tiền bán sách mua nước hoa loại tắm gội và xà bông để bán kiếm lời.
Chíng lúc nầy tôi đang sống nhờ vào đó.

Cô gái nhìn Kern:

- Dường như không mấy khích lệ...

Kern nói mau:

- Tôi không muốn làm cô chán nản. Trường hợp của tôi khác hơn, tôi chẳng có giấy tờ gì cả. Còn cô thị chắc có giấy thông hành.

Co gái gật đầu:

- Nhưng chỉ còn sáu tuần nữa là hết hạn.

- Cũng chẳng sao. Cô có thể xin gia hạn.

- Sợ không được đâu.

Cô gái đứng lên. Kern hỏi:

- Cô hút thêm một điếu...

- Dạ thôi, cám ơn anh. Tôi đã hút hơi nhiều.

- Có người báo với tôi, một điếu thuốc đúng lúc cũng ngang bằng với tất cả tư tưởng trên trái đất.

- Chắc là đúng đó – Cô gái cười và thình lình Kern thấy nàng quá đẹp.
Kern sẵn sàng hy sinh mọi thứ để câu chuyện tiếp tục nhưng anh không
biết làm cách nào. Anh lại hối hả nói:

- Nếu có thể giúp được cô bất cứ việc gì tôi rất vui lòng. Tôi biết khá
nhiều về Prague nhờ đã đến đây hai lần trước. Tên tôi là Ludwig Kern,
tôi đang ở sát bên phòng cô.

Cô gái nhìn Kern thật mau. Kern hốt hoảng cho là mình nói hớ. Nhưng cô
gái đã chìa tay ra. Cái siết tay ấm chặt của nàng khiến Kern lấy ngay
được tự tin.

- Lúc thấy cần, tôi sẽ không ngần ngại nhờ tới anh. Cám ơn anh nhiều lắm.

Nàng lấy mấy quyển sách học và đi lên.

Kern vẫn còn ngồi lại một lúc lâu. Thình lình anh hiểu ra nhưng lời cần phải nói.

- Steiner, tôi lặp lại là tôi hơi ngại cho bạn khi nhập cuộc lần đầu tiên trong sòng bạc bên kia.

Gã đánh bạc lận nhà nghề và Steiner đang ngồi trong một quán rượu. Hắn
đang dượt tay bài cho Steiner để chút nữa Steiner sẽ chơi lần đầu với
một toán đánh bài hạng lận tép riu trong một quán cóc. Đối Steiner, đây
là phương tiện duy nhất để làm ra tiền nếu không muốn trộm cướp.

Sau hơn nửa tiếng đồng hồ luyện nghệ, tay trùm bạc lận tỏ ra thoả mãn. Hôm nay, hắn mặc áo đuôi tôm.

- Thôi, tôi phải đi. Tới Opéra. Ghế thượng hạng. Với Lotte Lehmann. Khi
nào có đại nhạc hội là tụi nầy có dịp phát đạt. Bạn hiểu chớ... – Hắn
siết tay Steiner – À, bạn có bao nhiêu...

- Ba mươi hai Đức kim.

- Không đủ đâu. Phải cho mấy tên đó thấy một món tiền khá lớn để dễ câu –
Hắn cho tay vào túi và móc ra tờ giấy một trăm Đức kim, trao cho
Steiner.

- Đem tờ giấy bạc nầy theo. Sẽ có một gã nào đó tới quanh quẩn bên bạn.
Xong cuộc, trả tiền lại cho tôi, giao cho người chủ quán. Hắn biết tôi.
Nhớ đừng chơi kéo dài, và để ý khi bốn con đầm cùng ra một lúc.

Steiner lấy tờ giấy bạc:

- Nhưng nếu thua, tôi chẳng có cách nào trả lại.

Gã móc túi nhún vai:

- Thì đành chịu chớ sao. Nhưng bạn không thua đâu. Tôi biết rõ bọn đó. Thuộc hạng ruồi muỗi. Xúc động hả...

- Chắc không phải vậy...

- Như vậy là có đường. Chúng nó không biết bạn, tới chừng nhận ra thì chẳng còn gỡ gạc được bao nhiêu. Thôi, tôi đi.

Steiner đi qua cái quán cóc bên kia đường. Anh ta không khỏi nghĩ tới
chuyện lạ của cuộc đời: chẳng một ai khác dám giao cho anh một phần tư
số tiền của gã bất lương đã cho mượn vô điều kiện. Kể cũng vui. Cám ơn
Thượng Đế.

Trong quán đang có một số người chơi Tarot. Steiner tới ngồi gần cửa sổ
và gọi rượu mạnh. Hắn móc chiếc bóp dầy cộm – được dồn với giấy lớn – và
trả tiền rượu bằng tờ giấy bạc một trăm si - linh.

Vài phút sau, một anh chàng bé nhỏ, bịnh hoạn tới bắt chuyện và mời
Steiner nhập sòng phé. Steiner làm ra vẻ bận, từ chối. Anh chàng bé nhỏ
nài nỉ, Steiner bảo:

- Tôi không rảnh lắm. Chơi chỉ có nửa giờ thì ăn thua gì.

Anh chàng bé nhỏ đưa cả hàm răng vênh vẹo ra:

- Đâu phải vậy, ông bạn. Chỉ nửa tiếng đồng hồ số đỏ là được cả một gia tài.

Steiner ném một cái nhìn sang những tay bạc ngồi gần đó. Một người trong
bọn đầu sói, mặt lạnh. Người kia tóc đen và dầy, mũi ngắn. Cả hai dửng
dưng nhìn Steiner.

Steiner làm ra vẻ do dự:

- Nếu đồng ý chơi nửa giờ, tôi cũng thử thời vận một lần xem sao.

Anh chàng loắt choắt mừng rỡ:

- Nửa giờ mà, đúng nửa giờ.

- Nhưng tôi có thể nghỉ chơi bất cứ lúc nào...

- Dĩ nhiên, muốn chơi thì chơi, muốn nghỉ thì nghỉ.

- Dầu tôi ăn...

Anh chàng to lớn cắn môi. Hắn liếc mau sang đồng bạn: cả hai đều tưởng đã vớ được con mồi béo.

Anh chàng loắt choắt nói như rít:

- Ông bạn đừng ngại, đó là chuyện tự nhiên.

- Được. Vậy thì chơi.

Steiner tới ngồi với bọn chơi lận ruồi muỗi. Gã to lớn xào bài rồi chia
ra. Steiner ăn được vài Đức kim. Tới phiên mình chẻ bài, Steiner trổ tài
ngay. Anh ta xáo bài một lần nữa rồi kinh ngay chỗ hơi gồ lên, gọi một
ly Slilovitz, nhưng mắt không rời chồng bài và nhận thấy mất con già nằm
khít nhau. Hắn trộn bài lần nữa và phát bài.

Khoảng gần ba mươi phút, Steiner đã ăn gần ba mươi si - linh.

Anh chàng ốm tong teo sốt ruột:

- Hay lắm, bây giờ mình đánh lớn hơn chút ít để nóng máy.

Steiner lù khù gật đầu. Bàn nầy anh ta cũng thắng. Tới lượt gã to lớn
chia bài. Bàn tay anh ta đỏ hồng, ngón tay ngắn ngủn, trên thực tế khó
mà thiện nghệ. Tuy nhiên, Steiner nhận thấy anh ta khéo tay ngoài sức
tưởng tượng.

Gã sói đầu có ba con đầm. Hắn hỏi Steiner:

- Bao nhiêu...

- Bốn.

Kéo thêm bốn lá, Steiner buông bài, kêu lên:

- Thua rồi, mẹ!

Giờ phút quyết định đã gần kề, Steiner đánh gấp. Hắn chơi ngón bốn con
ách và gom trọn một số tiền lớn. Vừa hốt tiền hắn vừa nhìn đồng hồ:

- Chết cha! Gần tới giờ rồi. Chơi ván chót.

- Được, bàn chót!

Chỉ có anh chàng loắt choắt lên tiếng. Hai gã kia vẫn không hở môi.

Steiner đánh cú chót hai chục si - linh. Gã tóc hung lườm lườm Steiner
nhưng cũng bắt. Anh chàng loắt choắt vồ lấy bài của Steiner lật ra: bốn
con đầm. Anh ta hỏi gã tóc hung:

- Bạn có gì...

Gã tóc hung nhăn mặt:

- Ba già.

Steiner chớp mắt như người chợt tỉnh:

- Vậy mà tôi tưởng chỉ có ba đầm. Cây kia tôi tưởng là con bồi.

Anh chàng loắt choắt đề nghị chơi thêm một bàn cuối cùng. Steiner làm ra vẻ miễn cưỡng. Hắn quyết định bàn nầy sẽ đánh thật to.

Không một chút ngượng tay, Steiner dở ngón nghề ngón nghề tuyệt diệu ra.
Anh ta biết là tên to lớn đã chọt được bốn con già và đang dùng mắt ra
hiệu cho đồng bọn.

Tên to lớn đi liền. Steiner giả bộ ngập ngừng nhưng cũng theo. Tới một
trăm Đức kim, tên tóc hung bỏ cuộc. Tên to lớn đánh tiếp, tất cả là một
trăn năm chục si - linh. Steiner còn đang giả vờ do dự thì anh chàng tí
hon toan chụp bài Steiner:

- Đâu, ông bạn để tôi xem.

Steiner chận tay hắn:

- Không được.

Từ lâu rồi, Steiner không còn lạ gì lối ra hiệu bằng cách nhịp chân của
tên tí hon. Đánh tới một trăm tám chục Đức kim, tên sói đầu ngừng lại.
hắn trải bốn con già ra. Steiner hạ bốn con ách xuống.

Tên loắt choắt kêu lên kinh ngạc. Tất cả đều im lặng trong khi Steiner cho tiền vào túi. Gã tóc hung bỗng sẵng giọng:

- Chơi ván nữa đi.

- Quá giờ rồi. Hẹn lần khác.

Tên tóc hung hất hàm:

- Chơi ván nữa.

Steiner đứng dậy:

- Để lần khác.

Hắn tới quầy trả tiền. Hắn đẩy lướt thật mau tờ giấy bạc một trăm Đức kim vào tay người chủ quán và nói nhỏ:

- Nhờ ông bạn vui lòng trao lại cho Fred.

Người chủ quán giựt mình:

- Fred hả...

- Phải.

Người chủ quán mỉm cười:

- Thế là mấy ông bạn kia tự đâm đầu vào đá. Họ tưởng lưỡi câu họ bén, không ngờ lại gặp cá xà.

Cả ba tên du đãng đứng ở cửa. Tên tóc hung chận đường Steiner:

- Mình chơi thêm một ván nữa thôi.

Steiner nhìn thẳng vào mặt hắn. Tên loắt choắt vẫn làm ra điệu ngọt ngào:

- Nầy ông bạn, ở đây không có lệ rút êm. Chắc ông bạn thừa hiểu mà...

Steiner quắc mắt:

- Đừng dài dòng vô ích. Chiến tranh là phải theo luật của chiến tranh. Phải có lúc thua lúc được chớ.

Tên tóc hung sừng sộ:

- Tụi nầy chỉ có luật rừng thôi. Chơi hay không...

Steiner lắc đầu, cười ngạo mạn:

- Bọn mình đều lương thiện cả. Mấy người anh em và tôi đều biết rõ mục đích của mình. Thôi, hẹn lần sau.

Steiner lách mình ra, chen giữa gã loắt choắt và tên tóc hung. Anh muốn
dọ thử sức mạnh của tên này. Ngay lúc đó, người chủ quán bước ra:

- Không được lộn xộn trong quán. Quý vị hiểu cho.

Steiner quay lại cười:

- Đâu có, tôi chỉ lấy đường để đi ra.

Tên tóc hung bảo:

- Bọn nầy cũng đi.

Tên loắt choắt và gã tóc hung đi trước, Steiner đi giữa và phía sau là
tên sói đầu, to lớn. Đối với Steiner thì chỉ có tên tóc hung là đáng kể.
Hắn đi trước là một sự lỗi lầm. Ngay lúc bước qua ngưỡng cửa, Steiner
đạp ngược ra sau nhắm vào bụng gã to lớn, đồng thời dùng toàn lực bổ
mạnh vào gáy tên tóc hung. Tên nầy gã chúi tới khiến anh chàng tí hon
cũng té theo.

Không chút chậm trễ, Steiner phóng chạy như bay. Anh ta biết ngoài đường
trống khó mà đương đầu nổi một lúc ba người. Anh ta nghe có tiếng la ó
phía sau, và vừa chạy vừa nhìn lại, nhưng chẳng thấy bóng tên nào.

Steiner bắt đầu đi chậm lại trong những con đường đông người. Tới trước
tấm gương của một tiệm may, dừng lại, nhìn mình, anh nghĩ, cờ bạc lận và
lường gạt. Nhưng chỉ mới được có một nửa giấy thông hành… Anh ta gật
đầu chào bóng mình trong gương và tiếp tục đi.
Về Đầu Trang Go down
https://duonghoalac-hoabinh.forumvi.com
Admin
Admin
Admin
Admin

Tổng số bài gửi : 1754
Điểm : 6794
Ngày tham gia : 22/12/2010
Tuổi : 38
Đến từ : Hà Nội
Level: 38 Kinh nghiệm: 1754%
Sinh mệnh: 1754/100
Pháp lực: 38/100

NGƯỜI ĐIỀU HÀNH
Phù hiệu: Bản du ca cuối cùng - Erich Maria Remarque POLLICE

Bản du ca cuối cùng - Erich Maria Remarque Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Bản du ca cuối cùng - Erich Maria Remarque   Bản du ca cuối cùng - Erich Maria Remarque Icon_minitimeThu Apr 14, 2011 7:48 pm

Chương 5

Kern ngồi trên bờ tường của một nghĩa trang Do Thái, đếm
tiền. Suốt buổi sáng anh đã đi bán dạo ở Heiligenkreuzberg. Đây là một
khu phố nghèo nàn, nhưng Kern biết rằng sự nghèo khổ dễ đưa tới cảm
thông và độ lượng. Anh đã kiếm được ba mươi tám “cuaron”.

Anh cho tiền vào túi và cố đọc thử tên của người chết trên mộ bia tróc lở. Anh nói một mình:

- Rubbi Israel Love, ông là một học giả uyên thâm, ông đã đi vào cõi
thời gian vô tận, thân xác của ông chì là một đống xương đang mục rữa
trong lòng đất nhưng chắc chắn ông vẫn có một linh hồn. Vậy hãy cho tôi
biết tôi cần phải làm gì... Trở về phòng ngay hay tiếp tục đi bán để có
được năm chục “cuaron”.

Kern lấy ra một đồng tiền rồi nói tiếp:

- Dầu sao thì người chết cũng linh thiêng. Nếu đồng tiền úp sấp thì tôi đi bán nữa, nếu ngửa thì tôi sẽ về phòng.

Kern ném đồng tiền lên cao, toan bắt lấy nhưng chụp hụt. Đồng tiền rớt trên lưng ngôi mộ. Kern reo lên:

- Sấp! Thế là chính ông khuyên tôi đi bán nữa, ông Rabbi!

Và Kern hăm hở đi về phía một tòa nhà gần đó. Anh dừng lại một lúc ở cầu
thang. Chẳng thấy ai, anh lẳng lặng lên tầng trên. Một người đàn bà đi
ngang qua, nhìn thấy chiếc cặp da đựng các món bán rong của Kern, vội
vàng quay trở lại phòng, khép cửa thật mau.

Kern gõ cửa một căn phòng khác. Một người đàn ông mặc áo không gài nút ngực ló đầu ra. Kern chưa nói hết câu thì ông ta gắt lên:

- Bán dầu thơm... Mỹ phẩm... Cậu có biết đọc không... Biết hả... Vậy mà
còn dám rao hàng trước một đại diện thương mãi cho hãng Andrea. Thôi, đi
chỗ khác mau.

Cánh cửa đóng sầm lại. Kern đánh diêm quẹt lên và soi vào tấm bảng đồng
gắn ở cửa. Vậy là đúng quá rồi. Người chủ căn phòng nầy là Joseph
Schimek, chuyên bán sỉ nước hoa và xà bông thơm.

Kern lắc đầu lẩm bẩm:

- Thế này là sao đây, ông Rabbi... Đã có sự hiểu lầm giữa kẻ chết và người sống hay sao...

Kern nhận chuông phòng thứ ba. một người đàn bà to lớn. Có vẻ phúc hậu ra mở cửa. Vừa thấy Kern, bà ta vồn vã ngay.

- Mời cậu vào. Chắc cậu là người Đức... Dân tị nạn hả... Vào đi, mời cậu.

Kern theo bà ta vào trong nhà bếp.

- Ngồi xuống đó đi, chắc cậu mệt lắm...

- Dạ cũng không mệt bao nhiêu.

Kern vừa nói vừa khoan khoái ngồi lên một chiếc ghế. Đây là lần đầu tiên
ở Prague, anh được mời ngồi. Anh chợt nhớ tới chết tên Rabbi.

- Xin lỗi ông, tôi hãy còn quá trẻ, ông Rabbi… Xin lỗi…

Kern bày mấy chai nước hoa và mấy bánh xà bông thơm lên mặt bàn. Người
đàn bà đứng khoanh tay, lẳng lặng nhìn. Chờ Kern chất hết các món trong
cặp ra, bà ta chỉ một cái lọ con:

- Phải dầu thơm không...

- Dạ phải.

Kern trông đợi người đàn bà chú ý tới xà bông thơm hơn là nước hoa. Tuy
thế, anh vẫn không mấy ngạc nhiên, lại còn hãnh diện giới thiệu:

- Dạ, đây là hiệu nước hoa danh tiếng hiệu Farr của xưởng chế tạo Kern.
Các loại nước hoa khác, chẳng hạn như của xưởng Andrea mà ông Schimek ở
đây làm đại diện, không thể so sánh được.

- Ủa, thật vậy sao...

Kern mở nút chai, đưa cho người đàn bà ngửi. Anh phết một chút nước hoa lên lưng bàn tay sần sùi của bà ta.

- Bà cứ thử thì biết.

Người đàn bà đưa lên mũi, cười hềnh hệch:

- Thơm lắm. Nhưng cậu chỉ có chai nhỏ cỡ nầy thôi sao...

- Còn một chai lớn đây. Nhưng phải tới bốn chục cua - ron.

- Không sao. Tôi thích chai lớn. Cho tôi chai đó đi.

Kern không tin ở tai mình. Nếu bà ta chịu mua với giá đó thì anh lời trọn mười tám cua - ron. Anh vui vẻ nói mau:

- Nếu bà lấy chai lớn, tôi sẽ tặng bà một cục xà bông hạnh đào.

- Vậy hả... Tốt lắm, tôi cũng thích xà bông thơm.

Người đàn bà mang chai nước hoa và cục xà bông vào buồng bên cạnh. Kern
cho đồ đạc vào cặp. Mùi thịt bầm thơm phứt và béo ngọt từ đâu đó xông
ra. Kern quyết định đêm nay sẽ ra quán ăn một bữa thật ngon. Món súp ở
trại tạm cư đã làm anh chán ngấy.

Người đàn bà trở lại, nói với Kern:

- Cảm ơn cậu nhiều lắm. Xin biếu cậu một ổ bánh mì thịt nguội để ăn đi đường.

Kern đứng lên:

- Cám ơn bà.

- Có gì đâu. À, cậu còn cần gì nữa...

- Bà quên cho tiền…

Mặt người đàn bà nhăn lại:

- Tiền, tiền gì...

- Dạ, tiền chai dầu thơm.

Mụ to béo vụt quay nhìn sang buồng bên, tru tréo:

- Anton! Ra đây coi nè! Có cậu bé nầy định vòi tiền đây!

Một gã đàn ông mình trần từ buồng bên cạnh bước ra. Hắn đang nhai ngồm
ngoàm và dùng lưng bàn tay chùi miệng. Hắn nhìn lườm lườm vào mặt Kern
và hỏi giọng khàn khàn:

- Tiền hả... Tiền cái gì...

- Tiền mua chai nước hoa. Nếu cho là đắt thì trả lại. Tôi tặng luôn cục xà bông.

Người đàn ông lừ lừ bước tới:

- Nè, biết tao là ai không... Lại đây coi, bé con – mở toang ra và chỉ vào một bộ đồng phục máng trên lưng ghế:

- Biết cái gì đó không... Hay là đợi tao tiễn chân tới bót.

Kern lùi lại. Anh nghĩ ngay tới mười lăm ngày tù về tội hành nghề thương mãi bất hợp pháp. Tuy nhiên, anh cố trấn tĩnh:

- Tôi có giấy lưu trú đàng hoàng…

Nhưng gã bất lương cũng không vừa:

- Có giấy lưu trú... Mặc! Có giấy hành nghề không... Đưa đây coi.

- Tôi để ở khách sạn.

- Được. Vậy đi với tao về khách sạn… hay là để chai dầu thơm lại đây…

Kern đã bước lui tới cửa:

- Thôi, cứ để đó.

Mụ to béo cười teo toét:

- Cậu lấy khúc bánh mì theo chớ.

Kern mở cửa:

- Cám ơn, bà cứ giữ mà dùng.

Kern xô ập cánh cửa rồi phóng vọt xuống thang lầu. Một tràng cười nhạo
báng đuổi theo anh và tiếng nói như bò rống của mụ to béo:

- Nó chạy cũng mau như thằng cha Do Thái hồi chiều.

Kern chạy thẳng ra ngoài trong khi mụ to béo ôm bụng cười:

- Nó tưởng anh là Cảnh sát…

Gã bất lương xỉa răng bằng móng tay:

- Bọn nó hễ thấy đồng phục là chạy trối chết, dầu chỉ là đồng phục của người phát thơ. Có đám tị nạn đó, mình cũng đỡ…

Hắn vừa nói vừa chụp vào bộ ngực đồ sộ của mụ vợ.

Kern đi như người mất hồn về phía nghĩa trang. Anh đứng lại, nhìn ngôi mộ lúc nãy và lẩm bẩm:

- Rabbi ơi, ông hại tôi rồi. Thế là mất toi bốn chục cua - ron với cục
xà bông. Chúng nó nuốt sống hai mươi bốn cua - ron vốn rồi, Rabbi ơi.

Kern trở về lữ quán. Anh hỏi gã gác cửa:

- Có ai hỏi tôi không...

- Chẳng có ma nào cả.

- Chắc không...

- Cả ông Tổng thống cũng không tới.

Kern không trả lời. Anh đi thẳng lên lầu hơi lấy làm lạ là chẳng được
một tin tức nào của cha mình. Có thể ông không còn ở căn nhà đó mà cũng
có thể là ông đã bị bắt rồi.

Kern quyết định chờ thêm vài ngày nữa rồi tới bà Ekowski.

Vừa bước vào phòng anh gặp ngay người đàn ông đã mớ to đêm qua. Ông ta tên Rabe, đang sửa soạn thay đồ ngủ. Kern hỏi:

- Chưa chín giờ mà ông định ngủ à...

Rabbe gật đầu:

- Ngủ sớm để tới khuya thức dậy luôn. Đó là giờ mà tôi thường gặp ác
mộng. Ở tù cứ nửa đêm là thức rồi ngồi luôn hai ba tiếng đồng hồ. Bây
giờ phải tập dậy nửa đêm, ngồi một lúc rồi uống thuốc an thần. Có vậy
mới không nằm mơ.

Ông ta để ly nước bên cạnh giường rồi nói tiếp:

- Cậu có biết lúc thức dậy, tôi tự trấn an bằng cách gì không... Tôi đọc nhẩm lại những bài học thuộc lòng lúc nhỏ.

Kern ngạc nhiên:

- Bài học thuộc lòng...

- Đúng vậy. Chẳng hạn như bài hát ru nầy:

Đêm đêm lên giường ngủ,

Thấy Cha tôi trên trời,

Aùnh mắt ngời thánh thiện,

Soi sáng tâm linh tôi.

Lạy Cha con đắc tội,

Phước Cha tựa biển trời,

Máu Jesus Christ đổ,

Tin lành đến muôn nơi…

Như một bóng ma hiền dịu, ông ta đứng bất động giữa phòng khẽ ngâm lại
những câu thơ tiểu học. Bên ngoài là bóng đêm thầm lặng đóng khung trong
vuông cửa sổ. Ông ta cười thiểu não:

- Những bài hát ru loại đó làm tôi thấy yên tâm. Chẳng biết tại sao…

Kern nheo mắt lại, giọng anh cũng trở nên ảm đạm:

- Có những điều mình không bao giờ biết.

- Kể ra cũng lạ. Cứ mỗi lần ngâm nga như thế là tôi thấy như đã tìm được một nơi trú ẩn an toàn.

Kern bắt đầu cảm thấy khó chịu. Anh có cảm giác đang sởn da gà:

- Tôi thì quên mất cả. Tôi có cảm tưởng như đã bỏ trường cả thế kỷ.

- Tôi cũng có nhớ gì đâu. Nhưng rồi thình lình những bài học thuộc lòng kiểu đó hiện tới, không mất một câu, một chữ.

Kern gật đầu và đứng lên. Anh muốn ra ngoài để Rabe ngủ và để khỏi bận tâm về ông ta.

- Bây giờ, lúc rảnh rỗi tôi cũng chẳng biết phải làm gì. Đó là thời gian
nặng nề nhứt trong ngày. Lâu lắm, tôi chẳng hề đọc sách. Còn ngồi lại
để nhắc nhớ những ngày vui sống ở quê nhà thà chết còn hơn.

Rabe ngồi xuống giường:

- Hay là cậu đi xi - nê. Xem xong rồi là chẳng còn nhớ gì nữa cả nhưng dầu sao vẫn còn hơn để đầu óc trống rỗng.

- Xem xi - nê...

Kern vừa hỏi vừa nghĩ tới chuyện mời thiếu nữ phòng bên cạnh cùng đi.

- Ông biết hết những người trong lữ quán nầy chớ...

Rube tháo vớ ra và cử động mấy ngón chân:

- Biết một vài người. Chi vậy...

Ông ta nhìn những ngón chân như chưa bao giờ thấy chúng. Kern trả lời bằng một câu hỏi:

- Ông có biết mấy người ở phòng bên không...

Rabe nhíu mày suy nghĩ:

- Có biết bà Schimanowska. Một nữ tài tử tiền chiến.

- Tôi muốn hỏi người kia…

Người mang kính từ nãy giờ vẫn im lậng bỗng lên tiếng:

- Cậu muốn nói cô Ruth Holland chớ gì. Có đúng thế không, Don Fuan...

Kern đỏ mặt. Người mang kính tên Marill, một cựu dân biểu ở Reistag, tiếp tục chọc phá:

- Kể cũng lạ, người đời thường hay đỏ mặt khi đề cập tới những chuyện
rất tự nhiên. Trái lại, rất ít người chịu nhíu mày lúc tưởng tượng tới
những điều bỉ ổi. Sao, hôm nay làm ăn thế nào...

- Đại họa. Mất luôn cả vốn.

- Đã lỡ mất thì cho mất luôn một ít nữa cũng chẳng sao. Đó là phương cách tốt nhất để khỏi bị mặc cảm.

Kern nói mau:

- Tôi cũng đang tính như thế. Định đi xi nê.

- Hoan hô. Chắc với cô Ruth Holland...

Kern ngập ngừng:

- Chắc là … mà không biết… tôi chưa quen…

- Làm thế nào quen nhau được khi vẫn chưa chịu làm quen... Mạnh dạn lên! Sự can đảm là viên ngọc quí nhứt của tuổi trẻ.

- Theo ông, thì cô ấy có bằng lòng không...

- Phải bằng lòng chớ. Sống dai dẳng trong sợ sệt và lo âu, người nào mà không thèm đôi phút giải trí. Tiến tới đi.

Rabe nói chen vào:

- Nên xem ở rạp Rialto. Phim Maroc. Cảnh nước ngoài càng thơ mộng, mình càng dễ quên lãng.

Marill tán đồng:

- Xứ Maroc. Nên lắm, nhứt là với các thiếu nữ.

Rabe cuộn tròn vào chăn:

- Lắm lúc, tôi ước mong được ngủ luôn một giấc mười năm.

Marill hỏi:

- Người bạn có ước ao gia thêm mười tuổi nữa không...

Rabe nhìn ông ta:

- Không. Nếu vậy thì con cái tôi đã lớn cả rồi.

Kern gõ cửa phòng người bên cạnh. Có tiếng người bên trong trả lời. Kern
xô cửa và dừng sững lại ngay. Đối diện Kern là nữ tài tử lão thành
Schimanowska, mặt như **** cú. Những nếp nhăn được trát phấn quá dầy
trông như một vùng núi non lởm chởm đang bị tuyết phủ. Hai mắt đen, sâu
hoắm chiếu thẳng vào mặt Kern như sắp vồ mồi, Kern có cảm tưởng bà ta
sắp nhảy bổ tới. Nhưng cô đào già bỗng nhăn cười và gượng hỏi với giọng
đặc sệt sân khấu:

- Người bạn trẻ muốn tìm ai...

- Tôi muốn nói chuyện với cô Ruth Holland.

Nụ cười biến mất, tiếp theo là giọng hầm hừ:

- À… à

Kern không buồn để ý. Anh nhìn vào trong. Ruth Holland đang ngồi đọc
sách trên giường. Kern nhận ra đó là chiếc giường mà đêm qua anh đã tới
lầm. Máu như dồn cả lên mặt anh.

- Tôi xin phép được nói chuyện với cô.

Ruth đứng lên, theo Kern ra hành lang. Phía sau họ là hơi thở ồ ồ của bà Schimanowska.

Kern bỗng thấy mình nói dối gọn lỏn:

- Tôi có hai vé hát, định mời cô…

Nhưng thấy Ruth nhìn sừng sững mình, Kern hơi hoảng:

- Hay là cô đã có thú tiêu khiển khác...

Ruth lắc đầu:

- Không, tôi chẳng có dự định nào cả.

Kern hớn hở:

- Vậy thì xin mời cô cùng đi với tôi. Chẳng lẽ cô cứ ở mãi trong phòng…

- Tôi đã quen như vậy rồi.

- Tôi thì không thể nào chịu được. Cứ ngồi như thế chừng hai mươi phút là tôi muốn điên lên, nhứt là cùng ở chung với bà ấy.

Cô gái cười:

- Coi vậy mà bà ta cũng tốt bụng.

Kern cũng cười:

- Có thể. Nhưng mặt bà ta khó đăm đăm, cứ thấy là ớn lạnh. Phim sẽ chiếu trong mười lăm phút nữa, cô đi chớ...

Ruth nhìn xa:

- Vâng nếu anh có sẵn vé.

Tới rạp Kern hối hả mua hai vé. Lúc nãy anh sợ Ruth nói dối nhưng bây
giờ sự lo nghĩ đó không còn làm anh bận tâm. Chỉ cần có người đẹp bên
mình là đủ.

Họ vào rạp lúc phim đang chiếu cảnh Marra - rakech. Một vùng đất huy
hoàng, hùng vĩ hiện trên màn bạc. Mặt trời chói sáng, một khoảng sa mạc
rạng ngời, và tiếng sáo kỳ diệu, tiếng trống rập rình của đêm huyền ảo
Phi châu.

Ruth thu gọn người trong lòng ghế. Chuỗi âm thanh huyền hoặc, ấm áp như một cơn mưa rào mùa Xuân… từ đó kỷ niệm hiện ra…

Ruth đang đứng trước một cái hố của lâu đài Nurembourg. Trời tháng tư.
Trước mặt nàng, trong bóng tối, là sinh viên Herbert Billing.

- Ruth có hiểu tôi muốn nói gì không...

- Hiểu lắm, Herbert. Chẳng có gì khó hiểu.

Billing vò vò báo trong tay:

- HoÏ đăng báo bảo tôi là đồ Do Thái. Thế là hết.

- Vâng.

- Tôi đang tìm cách thoát. Nhưng ác hại là đã có tên trên báo, mọi người đều biết, Ruth hiểu không...

- Hiểu lắm. Nhưng tên tôi cũng có tên trên báo.

- Nhưng với Ruth thì khác hơn. Ruth vẫn có thể trở lại Đại học.

- Vâng.

- Như thế là hết rồi phải không... Chúng mình mỗi đứa đi một ngả.

- Vĩnh biệt, Herbert.

Ruth quay đi ngay, Hebert nói mau:

- Khoan Ruth, đợi một chút.

Ruth dừng lại. Hebert bước tới, dứng sát bên đến nỗi Ruth nghe rõ cả hơi thở của anh ta

- Bây giờ Ruth định đi đâu...

- Về nhà.

Hơi thở của Herbert dồn dập hơn:

- Chúng mình đã đồng ý xa nhau, phải không... Nhưng mình… vẫn có thể…
đêm nay tôi ở nhà một mình, Ruth hiểu chớ, không ai thấy mình - Herbert
nắm tay Ruth – Mình không thể chia tay suông thế này…

- Thôi, anh đi đi!

Herbert ôm lấy vai cô gái:

- Ruth, nghe anh.

Khuân mặt mà Ruth hằng yêu mến chợt trở nên quái dị, Ruth tát mạnh vào sự quái dị đó. Nàng vừa khóc vừa hét:

- Đi đi! Đi ngay đi!

Billing sửng sốt:

- Sao... Ruth đánh tôi... Lạ thật.

Billing muốn nhảy xổ tới. Ruth lại hét to:

- Đi ngay đi!

Billing hoảng sợ nhìn quanh:

- Câm miệng! Cô định làm cho cả khu phố nầy đổ ra chống lại tôi, hả...
Đồ khốn! Được rồi, tôi đi đây. Tôi sẽ xa cô, xa rời cô vĩnh viễn…

Khi tình đã chết, tiếng hát của người thiếu phụ trên màn ảnh trầm ấm
quyện trong khói thuốc của một quán rượi Maroc. Ruth Holland đưa tay sờ
trán…

Tiếp sau là cuộc tình đổ vỡ đó, Ruth chẳng thấy có gì quan trọng cả. Sự
sợ hãi của thân quyến nàng, những lơi nhắc đi nhắc lại của ông chú thúc
hối nàng ra đi vì sợ liên luỵ, một bức thư nặc danh hăm doạ, nếu nàng
không đi trong vòng ba hôm thì sẽ bị cạo trọc đầu, bị đem ra giữa phố
với hai tấm biểu ngữ đeo ở ngực và lưng tố cáo là người của chủng tộc
thối nát. Rồi chuyến viếng thăm ngôi mộ mẹ, đứng cầu nguyện trong nghĩa
trang quân đội trước danh tánh của người cha, đã hy sinh vì đất nước. Bị
bôi xoá chỉ vì cái tội đã là dân Do Thái. Và cuối cùng là cuộc ra đi
hối hả và đơn độc với một ít nữ trang còn sót lại, vượt biên giới sang
Prague…

Tiếng sáo và tiếng trống Phi Châu lại nổi lên, bị lấn át bởi một khúc
quân hành của quân Lê Dương, Những tiếng kèn đồng vang rền sa mạc của
những kẻ chiến đấu không nhà, không tổ quốc.

Kern nghiên người sang Ruth:

- Phim khá chớ...

- Không tệ lắm.

Kern cho tay vào túi lấy ra một lọ nước hoa nho nhỏ đưa cho Ruth:

- Ở đây nóng bức, xức một ít nước hoa cho dễ chịu.

- Cám ơn anh.

Nàng nhỏ vài giọt nước hoa vào trong lòng bàn tay. Kern không nhìn thấy
nước mắt người con gái ngồi bên cạnh. Lại có lời”cám ơn” như một tiếng
thở dài.

Stainer tới quán Hallebarde lần thứ hai. Anh ta nhét vào tay gã hầu bàn
một tờ giấy bạc Đức kim và gọi một tách cà phê. Gã hầu bàn hỏi:

- Ông cần điện thoại...

Steiner gật đầu. Mấy lúc sau nầy, anh ta đã dở hết nghề đánh bạc lận tại
nhiều quán khác nhau và đã kiếm được tất cả khoảng năm trăm si linh.

Gã hầu bàn mang tới một chồng báo. Steiner chọn một tờ nhưng rồi lại bỏ
xuống ngay. Những gì xẩy ra trên thế giới không còn làm anh bận tâm. Mối
bận tâm và vấn đề duy nhứt của một kẻ đang lặn sâu dưới nước là làm thế
nào để ngoi đầu lên. Màu sắc và hình thù của loài thuỷ tộc chung quanh
chẳng có gì đáng nhìn ngắm cả.

Gã hầu bàn mang cà phê và một ly nước tới:

- Mấy ông đó sẽ có mặt trong vòng một tiếng đồng hồ.

Gã vẫn còn đứng đó một lúc gạ chuyện:

- Trời hôm nay đẹp.

Steiner gật đầu. Mắt anh chạm vào một mẫu quảng cáo dán ở tường khuyên nên uống bia để sống lâu.

- Cho tôi một ly Kirsh.

- Có ngay.

- Thêm một ly cho người anh em luôn.

Gã hầu bàn nghiên mình tỏ dấu hiệu cám ơn:

- Ông điệu quá. Ít người được như ông.

Steiner hững hờ:

- Tôi đang buồn. Chỉ có vậy thôi.

- Nhưng có những người cũng buồn mà không điệu. Mang bia tới, gã hầu bàn cùng uống bia với Steiner.

Gã gãi trái cổ như muốn làm thông giọng:

- Tôi biết ông tới đây để làm gì. Nếu ông cho phép, tôi xin có lời
khuyên là nên chọn một người Aùo đã chết. Cũng có những người Rumani
chết, rẻ tiền hơn, nhưng ít ai nói tới chuyện đó.

Steiner nhìn thẳng vào mắt gã hầu bàn. Gã rời tay khỏi trái cổ và bắt tay gãi gáy:

- Tốt hơn hết là một người Anh hay người Mỹ. Nhưng có người Mỹ nào chịu chết ở đất Aùo đâu màcó giấy thông hành...

Steiner suy nghĩ:

- Giấy thông hành của một người Đức tốt hơn người Aùo khó kiểm soát hơn.

- Có thể. Nhưng nhưng ông lại không được cấp giấy phép hành nghề. Chỉ
được lưu trú thôi. Với một người Aùo chết, ông có thể làm việc bất cứ
nơi nào trên đất Aùo.

- Cho tới khi bại lộ và bị bắt...

- Dĩ nhiên. Nhưng dễ gì…

Gã hầu bàn mân mê chót mũi:

- Tôi chỉ nói để giúp ý kiến thôi. Một người Aùo bao giờ cũng tiện lợi hơn.

Khoảng mười giờ, hai tay buôn giấy thông hành tới quán. Người nho nhỏ,
mắt sáng quắc, chuyên về phần thương lượng trong khi người to lớn chỉ
ngồi lặng yên theo dõi.

Người nhỏ thó rút một tờ thông hành Đức ra:

- Tôi đã hỏi kỹ mấy người bạn có thẩm quyền của chúng tôi. Ông có thể
lấy giấy nầy với tên họ của ông. Sẽ có người phụ trách tẩy xoá dấu hiệu
riêng rồi điền vào các dấu hiệu riêng của ông. Dĩ nhiên là sinh quán vẫn
để nguyên, vẫn phải là Ausbourg vì con dấu ở đó. Trong trường hợp nầy
phải trả thêm hai trăm Đức kim. Công việc hoàn toàn chíng xác, ông hiểu
chớ...

Steiner dựa vào lưng ghế:

- Tôi không có nhiều tiền. Vả lại, tôi không có vấn đề giữ được tên họ của mình là quan trọng.

- Vậy thì cứ để nguyên. Chỉ cần đổi tấm hình thôi. Chúng tôi sẽ phụ trách đóng dáu lên ảnh, không đòi thêm gì cả.

- Nhưng vô ích. Tôi cần phải làm việc vơi thẻ thông hành Đức, người ta không cho giấy phép hành nghề.

Người to lớn nhún vai. Anh chàng nhỏ thó thở ra:

- Vậy chỉ còn giấy thông hành người Aùo.

- Nhưng nếu người ta điều tra ra...

- Làm gì có chuyện đó trừ khi chính ông không kín miệng.

Steiner nói giá:

- Ba trăm si linh.

Giựt nhổm người, anh chàng nhỏ thó ra chiều khó chịu:

- Chúng tôi không hề nói thách. Nghề nghiệp mà. Năm trăm Đức kim, không bớt một đồng xu.

Steiner không đáp. Anh chàng nhỏ thó nói một hơi:

- Với thẻ thông hành Đức thì còn kỳ kèo được vì thỉnh thoảng chúng tôi
cũng có mối. Nhưng thông hành Aùo là vật hiếm có. Ít khi có người Áo nào
cần giấy thông hành. Năm trăm si linh, chắc một lời.

- Ba trăm năm chục.

- Ba trăm năm chục vừa đủ khoản tiền mà chúng tôi đã trả cho gia đình
người chết. Và đó không phải là chuyện dễ làm và ít tốn kém đâu! Còn
tiền sở phí… Đối với người quá cố, mình cũng phải trọng nể, phải không
ông... Muốn có được giấy tờ của một người nằm yên trong mồ mả, chúng tôi
phải trả ngay tiền mặt cho gia đình ông ta. Chỉ có tiền mặt mới là lý
do chính đáng để an ủi sự đau buồn. Tuy nhiên, trông ông là người người
đàng hoàng, dễ mến, chúng tôi có thẻ bằng lòng với giá bốn trăm năm
chục. Nhưng làm như thế tức là đi ngược lại quyền lợi của chúng tôi.

Hai bên còn mặc cả một lúc lâu trước khi cũng bằng lòng giá bốn trăm Đức
kim. Steiner lấy một tấm ảnh vừa mới chụp ra trao cho họ.

Cả hai tay buôn mang tấm ảnh đi. Một giờ sau, họ trở lại với tấm thẻ
thông hành có dán ảnh của Steiner và đã được đóng dấu lên trên. Steiner
trao đủ tiền cho anh chàng phát ngôn. Anh ta ra điều thân tín:

- Chúc ông bạn may mắn. À, tôi cần dặn thêm. Khi nào hết hạn, ông bạn cứ
đến để chúng tôi sửa lại. Dễ lắm. Chuyện khó là xin chiếu khán.

- Hay là mình làm ngay lúc nầy đi.

Anh chàng phát ngôn lắc đầu:

- Cứ để nguyên như thế tốt hơn. Ông bạn hiện đang có một thẻ thông hành
đích thực. Đổi ảnh không bị tội nặng bằng giả mạo văn tự. Vả lại, hiệu
lực còn tới cả hơn một năm nữa. Trong thời gian đó, biết bao nhiêu
chuyện sẽ xẩy ra. Biết đâu…

- Hy cọng như thế.

- Ông bạn nhớ giữ kín cho. Chúng tôi chỉ dặn hờ thế thôi. Vì quyền lợi của đôi bên. Chào ông bạn.

- Chào các bạn.

Gã to lớn mở miệng lần đầu tiên:

- Streecz miecze.

Anh chàng nhỏ thó cười giải thích:

- Anh ta không biết tiếng Đức, nhưng rất phù thuỷ về những con dấu. Nghề nghiệp mà.

Steiner ra nhà ga. Anh ta đã gởi chiếc túi đeo ở đó. Hôm qua, anh dã rời
nhà trọ và ngủ đêm trêm một cái ghế đá ở công viên. Buổi sáng, anh cạo
râu trong phòng vệ sinh tại nhà ga rồi mới chụp hình lấy liền.

Bây giờ, với tấm thông hành mới mua anh trở thành một công nhân tên Fohann Gruber.

Được một quãng đường, Steiner bỗng dừng lại. Còn một việc phải thanh
toán trong khi anh ta muốn còn tự gọi với tên Steiner. Anh ta vào một
buồng điện thoại bấm “Leopold Schafer, 27, Truteraugasse. ” Anh không
bao giờ quên tên kẻ đã đánh mình hôm Kern cùng bị bắt. Anh ta quay số
vừa tìm thấy. Có tiếng đàn bà trả lời. Steiner hỏi:

- Schafer có nhà không...

- Dạ có, để tôi gọi.

Steiner nói mau:

- Thôi khỏi. Đây là trụ sở Cảnh sát Elisabeth Promenade. Đêm nay có hành
quân. Bảo Schafer trình diện 15 phút trước nửa đêm. Hiểu chưa...

- Dạ hiểu, mười hai giờ thiếu mười lăm.

- Tốt.

Steiner móc máy vào.

Trautegunasse là một con đường nhỏ hẹp và thưa vắng, chỉ lèo tèo một ít
ngôi nhà cũ kỹ, đa số là dân trung lưu. Steiner quan sát cẩn thận căn
nhà mang số 27. Căn nhà cũng chẳng khác gì bao nhiêu nhà khác cùng một
con đường nhưng Steiner lại thấy thù ghét nó lạ lùng. Anh ta ngược lại
một quãng đường và đứng đợi.

Một lúc sau, Schafer ra khỏi nhà với điệu bộ của một nhân vật quan
trọng. Steiner đi ngược chiều vừa đúng lúc gặp nhau ở một khoảng tối và
đụng mạnh vào vai Schafer.

Schefer lảo đảo gượng đứng lại:

- Bộ say rượu hả... Anh không thấy một chức việc đang mặc sắc phục đây sao...

- Xin lỗi, tôi chỉ thấy có thằng chó má. Một thằng chó má, nghe rõ chưa...

Schafer chưng hửng một lúc mới bình tĩnh lại:

- Mầy có điên không... Được, mầy sẽ biết tay tao.

Hắn vừa nói vừa rút súng ra. Nhanh như chớp, Steiner đá mạnh vào cườm
tay, đồng thời xông tới, tát vào mặt Schafer luôn hai cái như trời
giáng.

Schafer gầm lên, xóc tới. Steiner tránh gọn sang một bên, tung một cú
đấm thẳng đánh trúng vào mũi Schafer làm đổ máu. Vừa đánh, Steiner vừa
nghiến răng:

- Thằng chó má, quân đê tiện, dồ khiếp nhược!

Một quả đấm kế tiếp trúng vào miệng Schafer. Schafer kêu to:

- Cứu tôi, cứu tôi!

Steiner bước tới:

- Cho mầy kêu.

Vừa nói, anh ta bổ tiếp một quả đấm vào cằm bằng tay mặt và dùng ức bàn
tay trái chấn thẳng vào chấn thuỷ khiến Schafer ngã khuỵu.

Vài cánh cửa bên đường vụt mở ra. Có người hỏi:

- Chuyện gì vậy...

Steiner từ trong bóng tối đáp:

- Một gã say rượu.

Người vừa hỏi bực tức:

- Lại say sưa làm náo loạn cả phố. Đem nó tới bót đi.

- Đúng vậy. Để tôi dìu hắn đi.

Các cửa sổ lần lượt khép lại. Steiner vọt chạy cề phía góc đường. Anh ta
tin chắc rằng với khuôn mặt sạch sẽ và cạo nhẵn râu của mình, chắc chắn
Schafer chẳng nhận ra, nhứt là trong bóng đêm.

Tới một con đường có nhiều xe cộ, anh đi chậm lại.

Trả thù cũng là một khoái trá nhưng cũng là chuyện buồn nôn, nhứt là trả
thù hắc ám. Tuy nhiên, anh nghĩ tiếp, dầu sao nó cũng đền bù được phần
nào những năm dài chạy trốn. Anh đứng dưới ánh sáng một ngọn đèn đường,
rút giấy thông hành vừa mua được lúc tối ra. Tấm ảnh là của anh nhưng
tên họ lại là Johann Hubert. Steiner nói thầm “ông bạn đã chết và sẽ rã
rục trong lòng đất Gratz. Còn tôi, Johaph Steiner, tôi vẫn sống nhưng
chẳng có giấy thông hành nên kể như đã chết. Chúng mình trao đổi với
nhau. Ông bạn cho tôi cuộc sống bằng giấy tờ, tôi hiến ông bạn cái chết
của một kẻ không căn cước. Khi mà những người sống không còn muốn giúp
đỡ nhau thì người chết đành phải làm công việc đó”.
Về Đầu Trang Go down
https://duonghoalac-hoabinh.forumvi.com
Admin
Admin
Admin
Admin

Tổng số bài gửi : 1754
Điểm : 6794
Ngày tham gia : 22/12/2010
Tuổi : 38
Đến từ : Hà Nội
Level: 38 Kinh nghiệm: 1754%
Sinh mệnh: 1754/100
Pháp lực: 38/100

NGƯỜI ĐIỀU HÀNH
Phù hiệu: Bản du ca cuối cùng - Erich Maria Remarque POLLICE

Bản du ca cuối cùng - Erich Maria Remarque Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Bản du ca cuối cùng - Erich Maria Remarque   Bản du ca cuối cùng - Erich Maria Remarque Icon_minitimeThu Apr 14, 2011 7:48 pm

Chương 6

Kern trở về lữ quán chiều chủ nhật. Vào phòng, anh gặp ngay Marill đang xúc động mạnh. Thấy Kern, ông ta kêu lên:

- May quá, có người rồi. Tất cả đều đi vắng, ngay cả cái thằng chủ hộp tạm trú nầy.

- Chuyện gì vậy...

- Cậu có biết ở đâu có một cô đỡ không... Một bác sĩ hay một chuyên viên tình dục cũng được. Biết không...

- Không.

Marill chán nản lắc đầu. Ông ta nhìn Kern:

- Đành vậy. Kern, cậu là người đứng đắn. Lại đằng nầy với tôi. Cần phải
có một người ở bên cạnh bà ta để tôi chạy đi tìm bà mụ. Được chớ...

- Nhưng làm việc gì...

- Canh chừng đừng để bà ta lăn lộn nhiều. Nói chuện với bà ta hay làm bất cứ một cái gì.

Ông ta lôi Kren xuống tầng lầu dưới và mở cửa một căn phòng nhỏ hẹp ra,
bên trong chỉ có cái giường. Trên giường, một thiếu phụ đang rên rỉ.
Marill giải thích:

- Mới có bảy tháng. Đẻ non. Tôi đi gọi bác sĩ ngay.

Kern chưa kịp có phản ứng, ông dân biểu bị trục xuất ra khỏi nước Đức đã phóng vọt ra ngoài.

Người đàn bà rên nho nhỏ. Kern nhón chân bước tới, ngập ngừng hỏi:

- Bà có cần gì không...

Thiếu phụ tiếp tục rên. Tóc bà ta ướt đẫm mồ hôi, mắt trắng dã. Bà ta cố nghiến chặt hai hàm răng lại như để khỏi kêu la.

Kern lại hỏi:

- Bà có cần tôi tiếp gì không...

Anh nhìn quanh phòng. Một cái áo khoác che bụi loại rẻ tiền nằm vắt trên
tay ghế. Gần đầu giường là một đôi giày cũ kỹ. Người đàn bà nằm trên
giường vẫn mặc nguyên quần áo, dường như bà ta đã bất thần ngã quỵ lên
đó. Trên chiếc bàn nhỏ có chai nước và bên cạnh là một cái va li.

Người thiếu phụ rên to hơn. Kern chẳng biết phải làm gì. Bà ta lăn qua
lộn lại. Kern nhớ tới lời dặn của Marill và một ít hiểu biết hồi còn ở
Đại học. Anh cố giữ chặt vai người đàn bà và có cảm tưởng như đang chụp
bắt một con rắn. Mỗi lần Kern vừa chạm vào vai, người đàn bà lại trằn
mình qua một bên. Rồi thình lình, bà ta quơ hai tay lên khoảng không,
chụp trúng cánh tay của Kern và bấu siết vào.

Kern không ngờ người đàn bà đau đẻ lại mạnh đến thế. Bà ta nghiêng đầu
qua một bên vừa thở vừa rên siết như tiếng thở từ lòng ruột quả đất
thoát ra.

Bỗng nhiên, thân hình người đàn bà co giựt liên hồi. Kern bỗng hoảng hốt
khi nhìn thấy một vệt đỏ thẫm đang loang dài trên vải giường. Anh cố
vùng thoát ra nhưng người đàn bà cẫn bấu chặt. Như bị thôi miên, anh
nhìn sững dòng máu đang chảy tới cuối giường và nhỏ giọt xuống, đọng
thành vũng trên nền nhà.

Kern thấy cần phải làm một cái gì nhưng không dám vùng vẫy sợ làm kinh động người đàn bà. Anh nói qua hơi thở:

- Buông tôi ra! Buông tôi ra, mau!

Đột nhiên, toàn thân người thiếu phụ như giãn ra. Hai bàn tay buông
xuôi, bà ta ngã vật đầu xuống gối. Kern nhảy xổ ra ngoài, Chạy một mạch
lên phòng Ruth Holland.

Ruth đang ngồi trên giường với mấy quyển sách đã mở ra. Kern cuống cuồng vẫy tay:

- Mau! Có một bà ở phòng dưới bị băng huyết.

Cả hai cùng hối hả chạy xuống. Bóng tối đã tràn ngập căn phòng. Nắng
chiều còn sót bên cửa sổ chiếu thành một mặt bình hành vàng úa lên nền,
phản ánh từ chai nước trông như một viên hồng ngọc. Người đàn bà nằm
trên bất động, gần như không còn thở.

Ruth lại tốc mền lên. Khắp người bà ta ướt máu. Ruth hốt hoảng:

- Mở đèn mau!

Ánh đèn vàng lợt trộn có màu đỏ thẫm của nắng chiều làm thành một thứ
ánh sáng buồn thảm. Người đàn bà nằm trên giường trông như một khối cô
dạng loang lổ máu với hai chân co quặp lại.

- Đưa khăn cho tôi. Phải chận máu lại ngay. Đưa bất cứ vật gì cũng được.

Kern đưa chiếc khăn lau để trên bàn gần đó cho Ruth:

- Chắc bác sĩ sắp tới. Marill đã đi gọi rồi.

Anh vừa nói vừa lục trong va li xem có thứ gì có thể dùng để ngăn xuất huyết. Ruth lại kêu lên:

- Mau đi, đưa bất cứ gì cũng được mà.

Dưới đất một chồng tã trẻ con, mấy chiếc áo tý hon, vài tấm vải lót và
hai chiếc áo len cho trẻ sơ sinh. Ruth ném cái khăn đẫm máu vào một góc
và thúc hối Kern:

- Mau đi.

Kern đưa cho Ruth một đống tã và mấy tấm vải lót. Cùng lúc ấy, anh ta
nghe tiếng chân bước lên thang lầu. Cửa mở ra. Marill cùng với một bác
sĩ.

- Chúa ơi! Chuyện gì xẩy ra đây!

Ông bác sĩ nhảy một bước dài tới bên giường, xô Ruth ra cào khom xuống quan sát. Vài phút qua, ông ngẩng đầu lên bảo Marill:

- Gọi ngay số 2167. Bảo với Braun đem đủ dụng cụ đánh thuốc mê và một bộ
giải phẫu Braxton Hicko tới. Hiểu chớ... Dặn mang theo tất cả những gì
cần thiết để ngăn xuất huyết.

Marill chạy vụt ra. Ông bác sĩ nhìn quanh và bảo Kern:

- Cậu có thể đi ra, chỉ để cô nầy ở lại thôi. Tìm cho tôi một thùng nước. Đưa túi đồ lại đây.

Vị y sĩ thứ hai tới nơi mười phút sau. Kern và một số khách trọ vừa về
tới dọn dẹp phòng bên cạnh để làm nơi giải phẫu. Người chủ lữ quán cũng
hăng hái đi tìm những ngọn đèn mạnh hơn để căn phòng đủ sáng.

- Mau lên, mau lên!

Ông bác sĩ thứ nhứt luôn miệng thúc giục mọi người. Ông ta mặc áo choàng
trắng vào và lo soạn đồ mổ, để cho Ruth gài nút áo giùm. Ông ta ném cho
Ruth một cái áo choàng khác:

- Cô cũng phải mặc vào. Có sợ máu không...

- Dạ không.

- Tốt. Được lắm.

Kern lên tiếng:

- Tôi có thể giúp được một phần. Tôi đã học Y khoa hai lục cá nguyệt.

Ông bác sĩ nhìn các dụng cụ giải phẫu:

- Bây giờ chưa cần. Bắt đầu được chưa...

Aùnh đèn chiếu bóng trên khoảng đầu sói của ông ta. Cánh cửa phòng được
tháo ra. Bốn người đàn ông khiêng chiếc giường có người đàn bà băng
huyết nằm trên.

Người đàn bà khá nặng. Trán Kern lấm tấm mồ hôi. Anh bắt gặp cái nhìn
của Ruth. Mặt nàng tái xanh và bình tĩnh lạ lùng đến nỗi Kern thấy lạ
đi.

Ông bác sĩ sói đầu quát lên:

- Tất cả ra ngoài, trừ những người có phận sự.

Ông ta cầm tay người đàn bà:

- Có đau lắm không...

Người đàn bà thều thào:

- Xin cứu đứa bé…

Giọng người thầy thuốc dịu lại:

- Cứu cả hai, đừng lo.

- Đứa bé…

- Nó ra bằng vai. Chỉ cần xoay qua một chút là yên chuyện. Đừng lo ngại gì cả. Cho thuốc mê!

Kern và Marill cùng vài người nữa đứng đợi trong căn phòng bỏ trống của
người thiếu phụ sanh non. Từ phòng bên cạnh vẳng qua tiếng thì thềm của
hai ông bác sĩ.

Marill nhìn những cuộn len màu dưới đất, nói với Kern:

- Sanh đẻ, ra chào đời là như thế. Máu và những tiếng khóc, cậu hiểu không...

- Hiểu.

- Không. Cả cậu và tôi đều không hiểu. Một người đàn bà, rất giản dị. Cậu có thấy mình hơi ngốc một chút không...

- Không.

Marill lau tròng kiếng và nhìn Kern:

- Không... Nhưng tôi… À, cậu đã ăn nằm với một phụ nữ nào chưa... Chưa
à... Như vậy là cậu cũng ngốc một chút. Ở đây có rượu mạnh không...

Gã bồi phòng bước ra. Marill bảo:

- Cho nửa chai cognac. Được, được, có sẵn tiền đây, cứ mang lên.

Gã bồi phòng bước ra. Người chủ lữ quán và hai người nữa cũng bước theo.
Trong phòng chỉ còn lại Marill và Kern. Marill bảo Kern:

- Mình lại cửa sổ ngồi. Mặt trời chiều đẹp chớ...

Kern gật đầu. Marill chép miệng:

- Có nhiều điều trái ngược lại ở bên nhau. Ở dưới vườn có mấy bụi tử đinh hương phải không...

- Có.

- Tử đinh hương và hơi ether. Máu và rượu cognac. Nào, chúng mình chẩn bị cụng ly!

Gã bồi phòng đặt mâm lên bàn:

- Tôi mang lên bốn ly, ông Marill. Tôi nghĩ là ông có thể…

Hắn dùng đầu hướng về phía bên cạnh. Marill hiểu ý:

- Được tôi sẽ mời các vị ấy.

Và ông ta hỏi Kern:

- Cậu uống mạnh chớ...

- Ít thôi.

- Tiết độ là tật xấu của người Do Thái. Nhưng nhờ vậy mà họ hiểu nữ giới
nhiều hơn. Rất tiếc là phụ nữ không muốn ai hiểu họ. Nào, chúc vui cậu!

- Chúc vui ông!

Kern uống cạn ly. Anh cảm thấy dễ chịu hơn:

- Chỉ sanh non thôi hay còn chuyện gì khác...

- Sanh trước nhiều tuần. Vì quá mỏi mệt. Các chuyến đi, những lần thay
đổi xe lửa, sự nơm nớp lo sợ và hàng tá chuyện bất thường, cậu hiểu
chớ... Một người đàn bà trong tình trạng đó nhứt định không chịu đựng
nổi.

- Nhưng tại sao bà ta lại làm như thế...

Marill rót thêm rượu vào hai ly:

- Tại sao à... Tại vì bà ta muốn đứa con mang quốc tịch Tiệp Khắc. Tại
vì bà ta muốn đứa con, lúc đi học, bị người nhổ vào mặt và mắng là đồ Do
Thái bẩn thỉu.

- Người chồng bà ta đâu...

- Người chồng đã bị bắt trước đó ít lâu. Cậu biết tại sao không... Tại
vì ông ta là một nhà buôn hoạt động mạnh hơn một nhà buôn khác cùng ở
một con đường. Anh chàng con buôn cạnh tranh kia phải làm gì...

Hắn tố cáo người kia là có hành động phá hoại hoặc có tư tưởng Cộng sản,
hoặc vu cáo là bị mắng chửi thậm tệ, bất cứ chuyện gì. Vậy là người kia
bị bắt và hắn gom thâu khách hàng. Hiểu chớ...

Kern nhìn ra xa:

- Đó là chuyện quá quen thuộc với gai đình chúng tôi.

Marill uống cạn ly:

- Chúng ta đang sống ở thế kỷ nào... Hòa bình được đảm bảo bằng đại bác
và bom đạn, và tư tưởng nhân loại được bảo đảm bằng những trại tập trung
và các cuộc tàn sát người Do Thái. Chúng ta đang chứng kiến một sự đảo
lộn mọi giá trị. Kẻ tấn công tự nhận là người bảo vệ hòa bình trong khi
nạn nhân bị coi là kẻ làm rối loạn hòa bình. Vậy mà vẫn có nhiều dân tộc
tin như thế.

Khoảng nửa giờ sau, họ nghe có tiếng khóc oa oa ở phòng bên. Marill tươi cười:

- Hay quá, họ đã thành công. Tiệp Khắc lại có thêm một công dân. Hãy
uống chào mừng hắn. Uống đi Kern, uống để ca ngợi sự huyền bí của vũ
trụ, của sự sanh sôi nẩy nở. Cậu có biết tại sao phải gọi là huyền bí
không... Tại vì cuối cùng rồi cũng chết.

Cửa mở ra. Ông bác sĩ thứ hai bước vào, mình vấy máu và ướt mồ hôi. Ông
đang giữ chặt một vật gì đó đang kêu ré trong khi ông đang vỗ vỗ vào
lưng nó. Ruth bước vào. Ông bác sĩ bảo:

- Thằng bé thoát nạn. Cô lấy cái nầy…

Ông ta trao đứa bé và một mớ vải trải giường cho Ruth:

- Tắm nó và quấn lại. Đừng siết chặt. Bà chủ nhà nấy rành lắm. Cứ để nó
luôn ở dưới, đừng cho nó ở trong không khí ngập mùi ether nầy.

Ruth bồng đứa bé. Kern có cảm tưởng như mắt cô bạn mở lớn gấp đôi. Ông bác sĩ ngồi xuống, thở hắt ra:

- Bộ có cognac sao...

Marill rót một ly cho ông ta và hỏi:

- Trên thực tế, một y sĩ thường có cảm tưởng gì khi thấy người ta chế tạo chiến cụ hằng ngày mà không lo xây bệnh viện...

Vị bác sĩ ngước mắt:

- Nhảm! Hoàn toàn nhảm! Ở bệnh viện, người ta băng bó, may vá cho lành
lặn để rồi một hôm nào đó lại bị nổ tung ra từng mảnh. Tại sao không hủy
diệt ngay những trẻ sơ sinh đi! Như vậy giản tiện hơn.

Dân biểu đào tẩu Marill cười chua chát:

- Ông bạn quên điều nầy. Giết một đứa bé theo kiểu đó là phạm tội sát nhân, còn giết những người lớn là phục vụ cho đất nước.

Ông thầy thuốc thở dài:

- Cứ chờ có một thế chiến nữa rồi sẽ thấy. Sẽ có chẳng biết bao nhiêu
đàn bà và trẻ con bị lôi vào. Chúng ta đã chết quá nhiều vì dịch tả,
nhưng so với một cuộc chiến tranh, dầu ngắn hạn, thì bịnh dịch trở thành
vô hại.

Có tiếng gọi gấp rút từ phòng bên kia:

- Braun! Mau lên!

- Tới ngay!

Marill giựt mình:

- Nguy rồi! Chắc có chuyện không lành.

Một lúc sau, bác sĩ Braun trở lại, mặt thiểu não:

- Tử cung rách. Chẳng còn cách gì hơn. Máu tuôn ra hết.

- Không còn cách gì à...

- Vô phương. Chúng tôi đã tận lực. Không ngăn được.

Ruth đứng ở cửa, hỏi:

- Sang máu được không... Tôi tình nguyện cho máu.

Braun lắc đầu:

- Không được, cô bé. Sang máu mà không ngăn được máu tuôn ra thì vô ích.

Ông ta lại vội vàng sang phòng bên. Cửa để mở. Khung hình chữ nhật được
soi mờ càng làm tăng vẻ thê lương. Cả ba ngồi im lặng. Gã bồi phòng bước
vào:

- Thưa, dọn được chưa...

- Khoan đã!

Marill hỏi Ruth:

- Cô uống gì...

Ruth lắc đầu. Marill nài ép:

- Nên uống một chút sẽ thấy dễ chịu ngay.

Ông ta rót cho Ruth nửa ly cognac.

Trời bắt đầu tối. Những tia nắng cuối cùng còn lung linh màu tím thẫm ở
chân trời. Một mảnh trăng trắng nhợt lờ đờ trôi trông như một đồng tiền
cũ rỗ mặt. Tiếng xôn xao từ dưới đường vọng lên, náo nhiệt vui tươi,
Kern bỗng nhớ tới những lời của Steiner: Khi có người chết bên cạnh,
mình chẳng có cảm giác gì cả. Đó là điều tai hại của thế giới. Sự bi
thương không phải là cơn đau đớn. Sự bi thương có thể là một thứ hài
lòng che giấu. Một thứ cảm tưởng khi tự thấy mình may mắn không phải là
kẻ đang đau đớn hoặc vì kẻ ấy không phải là một người thân.

Kern nhìn sang Ruth. Bóng tối đã che khuất mặt mày nàng. Bỗng nhiên, Marill lắng tai:

- Cái gì vậy...

Một chuỗi âm điệu vĩ cầm làm lay chuyển bức màn đêm. Aâm thanh lúc chìm
trong gió, lúc nổi lên rồi vút cao trên vô tận. Từng tiếng nhạc đuổi bắt
nhau, dịu dàng, yểu điệu và buồn thảm cũng như cảnh buồn thảm dung dị
của hoàng hôn.

Marill nhìn qua cửa sổ:

- Người chơi vĩ cầm cũng ở trong lữ quán nầy. Trên lầu tư.

Kern gật đầu:

- Tôi biết ông ta. Tôi đã nghe ông ta đờn một lần. Không ngờ lại cũng ở đây.

- Không phải là một tay mơ. Đúng là một nhà nghề.

- Có cần tôi lên nói ông ta ngừng đờn không...

- Chi vậy...

Kern hất đầu ra phía cửa. Tròng kính của Marill lóe sáng:

- Không nên. Con người luôn luôn có lúc để buồn. Vả lại, ở đâu cũng có chết chóc. Những việc trái ngược nhau thường ở bên nhau.

Họ ngồi im lặng nghe điệu nhạc. Chừng như một thời gian vô tận đã trôi qua khi bác sĩ quay trở lại:

- Chết rồi. Không đau đớn lắm. Trước đó, bà ta đã biết mình có được một đứa con trai.

Cả ba người đứng lên. Braun đề nghị:

- Mình đem bà ấy qua đây. Người ta sắp cần phòng bên ấy.

Người đàn bà nằm đó, người như bé lại giữa đống chăn gối ngổn ngang vấy
máu, giữa những thau nước đầy bông gòn đỏ thắm. Bà ta nằm đó, khuôn mặt
xa vắng và trang nghiêm, chẳng còn gì để bận tâm. Ông bác sĩ đầu sói đi
qua đi lại bên giường làm thành một hình ảnh trái ngược: một sức sống
đang muốn nổ tung vì tức bực bên cạnh một cuộc an nghỉ cuối cùng.

- Nên đắp lại cẩn thận. Đừng để người khác trông thấy. Chắc cô bé mới chứng kiến vụ máu me lần thứ nhứt. Có sợ không...

Ruth lắc đầu.

- Tốt lắm. Aø nầy, Braun, anh có biết tôi xấu hổ đến mức nào không... Tôi muốn treo cổ để khỏi phải…

- Nhưng anh đã cứu sống đứa bé. Không giỏi thì làm thế nào được.

- Tôi biết là chúng mình đã làm đủ mọi thứ, không phải lỗi của mình nhưng tôi vẫn muốn tự treo cổ.

Ông ta nuốt nước miếng:

- Hơn hai mươi năm hành nghề nhưng hễ cứ mỗi lần để vuột một bênh nhân là mỗi lần tôi muốn tự vận. Vô lý thật.

Và ông quay sang Kern:

- Lấy giùm một điếu thuốc trong túi trái của tôi gắn vào miệng – Ông ta lập bập – Châm lửa giùm luôn. Tôi đi rửa tay đây.

Những người còn lại khiêng chiếc giường với người chết trở về chỗ cũ.
Ngoài hành lang, họ gặp vài người ở phòng lớn đã mượn làm nơi mổ. Một
người đàn bà gầy queo, cổ cao và sần sùi như cổ gà tây:

- Bộ không đem xác vào nhà thương sao...

Marill đáp:

- Không.

- Rồi để đây suốt đêm à... Làm sao người ta ngủ được...

Marill tức giận:

- Không ngủ được thì bà nội cứ thức.

Người đàn bà quắc mắt:

- Tôi không phải là bà nội.

- Cũng chẳng sao.

Người đàn bà xỉa xói Marill:

- Rồi ai lau phòng... Làm sao người ta chịu được mùi tanh hôi đó, hả...

Marill phân bua:

- Các người thấy không... Người nầy đã chết. Đứa bé đang cần có mẹ,
người chồng cần có vợ. Vậy mà mụ nầy không chút cảm động. Quả là một
chuyện khó hiểu.

Hai ông bác sĩ tới. Người đầu sói nói với Marill:

- Đứa bé đang ở với bà lữ quán. Tôi phải điện thoại để họ đến đem nó đi
và cho nhà chức trách biết rõ trường hợp cái chết. Ông bạn có biết bà ta
không...

Marilllắc đầu:

- Bà ấy mới tới có vài hôm. Tôi chỉ nói chuyện qua một lần.

- Chắc phải có giấy tờ.

- Để tôi coi.

Hai ông bác sĩ đi luôn. Marill lục tìm trong va li người chết. Bên trong
chỉ có một mớ tã, một áo dài xanh, một ít quần áo khác và một đồ chơi
trẻ con sặc sỡ. Trong túi xách tay, ông ta tìm thấy một thẻ thông hành
và một giấy phép cư ngụ do Cảnh sát Francfort - sur - l’Oder cấp. Marill
mang ra chỗ sáng đọc:

- Katharina Hirochfeld, tên thật Brinkman, sanh ở Munster ngày 17 - 3 - 1901.

Ông ta nhìn lại giấy thông hành:

- Còn hiệu lực ba năm. Ba năm cho một người khác. Chỉ cần chứng chỉ cư trú là đủ để khai tử.

Marill bỏ túi các giấy tờ và nói với Kern:

- Mọi việc để tôi lo. Phải mua một cây đèn cầy. Không hiểu sao nhưng tôi
có cảm tưởng là nên ở bên bà ta. Không cần thiết lắm nhưng chẳng lẽ bỏ
nằm một mình.

Ruth bảo:

- Tôi sẽ ở lại.

Kern nói ngay:

- Cả tôi nữa.

- Được. Chút nữa, tôi trở lại thay cô, cậu.

Trăng lên khá cao và sáng tỏ. Trời đêm rộng thênh thang và xanh biếc. Gió mang vào phòng mùi đất ẩm và hương hoa.

Kern đứng gần Ruth bên cửa sổ. Anh có cảm tưởng như vừa trở lại nhà sau
một chuyến viễn du. Anh vẫn còn nghe thấy tiếng đau đớn và tiếng kêu xé
buốt của người thiếu phụ, một thân hình đẫm máu, co giựt từng hồi. Anh
nghe hơi thở nhẹ của cô gái đứng và nhìn thấy vành môi tươi mát. Tự
nhiên anh hiểu rằng nàng cũng thuộc vào cái khối huyền bí mà tình yêu
đang bao quanh bởi một vòng tròn đáng sợ. Anh không rõ trời đêm có chia
xẻ với mùi đất xông lên và với tiếng đàn bềnh bồng trên mái ngói hay
không... Anh lại biết rằng nếu quay lại, anh sẽ bắt gặp khuôn mặt như
sáp của người chết, và anh cảm thấy cần có một hơi ấm, chỉ cần một hơi
ấm thôi…

Một bàn tay khác lạ nắm lấy bàn tay và đặt lên một bờ vai thon thỏ…
Về Đầu Trang Go down
https://duonghoalac-hoabinh.forumvi.com
Admin
Admin
Admin
Admin

Tổng số bài gửi : 1754
Điểm : 6794
Ngày tham gia : 22/12/2010
Tuổi : 38
Đến từ : Hà Nội
Level: 38 Kinh nghiệm: 1754%
Sinh mệnh: 1754/100
Pháp lực: 38/100

NGƯỜI ĐIỀU HÀNH
Phù hiệu: Bản du ca cuối cùng - Erich Maria Remarque POLLICE

Bản du ca cuối cùng - Erich Maria Remarque Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Bản du ca cuối cùng - Erich Maria Remarque   Bản du ca cuối cùng - Erich Maria Remarque Icon_minitimeThu Apr 14, 2011 7:49 pm

Chương 7

Marill ngồi trên một bục xi măng, đang phe phẩy quạt với một tờ báo. Trước mặt ông ta có một vài quyển sách.

- Lại đây, Kern. Sắp tới rồi. Đây là lúc những con thú đi tìm sự cô đơn và loài người đi tìm bạn. Còn được mấy ngày lưu trú...

Kern ngồi bên cạnh Marill:

- Còn một tuần.

- Một tuần, trong tù thì dài. Ngoài tự do thì quá ngắn – Marill chỉ vào
mấy quyển sách - Trong thời kỳ di trú mình có thể học thêm. Tôi đang học
Pháp và Anh văn.

Kern bỗng nói một câu bâng quơ:

- Bây giờ nghe thấy hai tiếng di trú tôi đã hết thấy đau xót.

Marill cười:

- Lầm rồi! Cậu đang có bạn đồng hành dễ thương đó thôi. Dante phải di
trú. Schiller chịu lưu đày. Heine, Victor Hugo cũng vậy. Đó là chỉ mới
kể một vài người thôi. Mặt trăng trên kia cũng phải xa lìa trái đất. Và
trái đất lìa xa mặt trời – Ông ta nháy mắt – Ước mong là cuộc di trú này
sẽ không biến chúng ta thành một vầng hơi trong không gian hay những
vẩn thạch. Cậu có tin mình cũng như thế không...

- Không.

Marill lại phe phẩy tờ báo:

- Nếu trời kông mưa đó là lỗi của người Do Thái.

- Không phải.

- Một mảnh trái phá trong bụng sẽ là hạnh phúc tuyệt vời của người Do Thái.

- Cũng không phải.

- Người Do Thái là bôn - sơ - vích bởi vì họ thâu tiền quá nhiều.

- Cũng khá. Và sao nữa...

- Rằng Jesus là người ở phía Đông Địa Trung Hải và là đứa con vô thừa nhận của Đức…

- Không phải. Đoán sai rồi. Tôi vừa đọc “ nhịp cầu tri âm”. Nghe đây: Ai
là người đàn ông đa cảm sẽ làm cho đời tôi hạnh phúc... Thiếu nữ dễ
thương, nhạy cảm, quý phái và tế nhị, thích tư tưởng và điều đẹp, rất
rành về ngành cho nhà trọ, tìm một người từ ba mươi lăm đến bốn mươi,
hoàn cảnh tố t – Ông ta ngước mắt – Như vậy nghĩa là bốn mươi mốt thì bị
loại. Và đây nữa: Tìm một người đàn ông xứng hợp. Phụ nữ vui vẻ trẻ
trung, thích sống nội tâm, nhiệt thành, mau thông cảm, biết thưởng thức
tình bạn, cần một người đàn ông có lợi tức tương đương, yêu nghệ thật và
thể thao – ngon lành quá, phải không... Và đây là: Đàn ông năm mươi
tuổi, cô độc, nhảy cảm, người trẻ hơn tuổi. Mồ côi cha lẫn mẹ… Marill
ngừng lại nhìn Kern – Năm mươi tuổi! Mồ côi cha lẫn mẹ! Tội nghiệp ghê!
Đây, cậu cầm lấy tờ báo. Hai trang mỗi tuần, chỉ có báo này mới có thôi.
Cứ đọc những lời rao ấy là thấy đầy dẫy những tấm lòng tốt, sự yêu
thương và tình bạn. Đúng là một thiên đàng! Một khu vườn Eden giữa rừng
già chánh trị. Tươi mát và yên tĩnh quá! Mình như thấy như giữa thời đại
bi thảm nầy vẫn còn quá nhiều tâm hồn cao cả…

Maill ném tờ báo về phía Kern:

- Tại sao không có lời rao: Chỉ huy trưởng trại tập trung, bản chất nhạy cảm, tinh thần cao cả...

Kern chua chát:

- Đừng quên rằng, hạng người đó vẫn ngỡ mình như thế.

- Đúng vậy. Càng ơ khai, người ta càng tưởng mình tốt, cậu sẽ thấy rõ
trong những lời rao tâm tình. Muốn làm được như vậy phải có một sự tin
tưởng mù quáng. Thái độ nghi ngờ và lòng vị tha chỉ trong những người
thật sự văn minh. Và cũng chỉ vì hai thứ đó mà con người văn minh chịu
thiệt thòi.

Ngay lúc đó, gã bồi phòng tới báo tin:

- Ông Kern, có người tìm ông. Chắc không phải là Cảnh sát.

Kern vội vàng đứng lên:

- Cám ơn, tôi tới ngay.

Anh có thể nhận ra ngay con người có vẻ thảm hại ấy. Đối với anh, người
tới tìm giống như bức ảnh mờ, một bức ảnh mà người ta phải từ từ nhận
dạng từng nét một mới thấy được toàn diện sự quen thuộc. Kern hoảng hốt
kêu:

- Ba!

- Chính ba đây! Ludwig!

Người cha lau mồ hôi trán, cười gượng gạo:

- Trời nóng quá.

- Dạ, dạo nầy trời nóng. Ba vào phía trong nầy mát hơn.

Sau khi mời cha ngồi, Kern đi tìm một ly nước chanh cho cha. Lúc trở lại, anh dè dặt nói:

- Lâu quá con không gặp ba.

Người cha gật đầu:

- Con còn ở đây lâu không...

- Dạ chắc không được. Họ khá tử tế nhưng sau thời hạn mười lăm hôm, có thể họ chỉ cho thêm một vài ngày nữa là cùng.

- Sau đó con có định lưu trú lâu không...

- Dạ không. Ở đây có quá nhiều di dân. Trước đây con hông biết. Con sẽ
cố quay lại Vienne. Ở đó dễ trốn hơn. Còn ba, ba tính sao...

- Ba bị bịnh, Ludwig. Cúm. Ba chỉ dậy được có mấy ngày nay.

Kern thở ra nhẹ nhõm:

- Vậy à... … Chắc bây giờ ba đỡ nhiều...

- Như con thấy đây, chẳng sao cả.

- Rồi ba sống bằng cách nào...

- Ba có một chỗ ẩn náu.

Kern cảm thấy vui vui:

- Và được canh gác cẩn mật.

Người cha nhìn con với ánh mắt hơi bối rối ngượng nghịu. Kern hơi ngạc nhiên:

- Ở đó có gì phiền phức không, ba...

- Tạm được, Ludwig. Đối với mình thì có gì đâu... Một chút yên tĩnh là
đủ. Ba cũng làm việc chút ít, làm kế toán cho một nhà buôn than củi.

- Hay quá! Họ trả bao nhiêu...

- Chẳng ra gì cả, chỉ vừa tiền túi. Nhưng ba được nuôi ăn ở.

- Vậy là tốt quá rồi. Mai con đến thăm ba.

- Cũng được, nhưng để ba đến đây cũng vậy thôi.

- Không ba đi làm gì cho mệt. Để con đi.

- Ludwig… - Người cha nuốt nước miếng - Ba thích lại đây thăm con hơn.

Kern không khỏi ngạc nhiên. Và đột nhiên anh hiểu cả… Người đàn bà vạm
vỡ canh cửa. Tim anh bỗng đập mạnh. Anh muốn nhảy phốc tới, vồ lấy cha
mình rồi hai người cùng tẩu thoát. Và trong khoảng khắc, Kern liên tưởng
tới mẹ, ở Dresde, vào những chủ nhật sống bên nhau. Bây giờ, trước mắt
anh, một người cha gẫy gập dưới ngọn roi định mệnh đang thảm khổ sợ sệt
con.

Hết rồi! Hỏng cả rồi! Tự nhiên, toàn thân Kern như rã rời từng mảnh và một sự thương hại pha lẫn chua xót dâng lên.

- Họ đã trục xuất ba đến hai lần, Ludwig. Ba chỉ cần tới đó một lần nữa
là vào tù. Kể ra họ cũng chẳng ác độc gì nhưng họ không thể lưu giữ tất
cả. Vả lại, ba bị bịnh… mưa dầm dề, Ludwig. Ba bị sưng phổi. Và, bà ấy
lo chạy chữa, nếu không thì ba đã chết mất rồi. Bà ta không phải là
người xấu…

Kern đã bình tĩnh lại:

- Con cũng nghĩ vậy.

- Ba có làm việc chút ít. Vừa đủ xài vặt. Ba không muốn nói thế… nhưng
ba không thể ngủ tiếp tục ở ghế đá công viên, và trốn chui trốn nhủi
mãi, Ludwig…

- Dạ, con hiểu.

Người cha nhìn vào khoảng không:

- Theo cha thì mẽ con nên làm đơn xin ly dị. Có như thế, mẹ con mới có thể trở về Đức.

- Ba muốn vậy sao...

- Không, không phải vì ba mà là vì mẹ con. Tất cả tội lỗi đều do ba. Nếu
ba không cưới mẹ con thì đâu có chuyện bị kết tội có chồng Do Thái. Lỗi
của ba. Và ba cũng có lỗi với con. Chính vì ba mà con mất quê hương.

Kern xúc động đến tột cùng. Hình ảnh một người cha vui sống lúc còn ở
Dresde đã biến mất. Chỉ còn lại hình ảnh một người già nua, đơn độc, bi
thảm, có liên hệ huyết thống với anh. Trong cơn bối rối, Kern bỗng đứng
lên và chuyện chưa bao giờ xẩy ra trong đầu anh bỗng chợt nhớ tới, anh
ôm choàng lấy đôi vai gầy yếu của người cha.

Siegmund cúi mặt:

- Con hiểu cho ba, Ludwig.

- Dạ, con hiểu lắm. Lỗi không phải do ba. Hoàn toàn không phải.

Anh vuốt nhẹ đường lưng xương xẩu của cha.

- Thôi, ba đi.

- Dạ.

- Để ba trả tiền ly nước chanh. Ba có mang một gói thuốc cho con. Dạo nầy, con lớn ra và khoẻ mạnh.

Kern nghĩ phải, còn ba thì già đi và mất hết tự tin. Chỉ cần con nắm
được trong tay kẻ nào đó đưa ba tới thảm cảnh này, con sẽ đập nát mặt nó
ra. Anh cố cười:

- Ba ráng giữ gìn sức khoẻ. Tiền ly nước, con trả rồi. Lúc nầy, con cũng
kiếm được một ít. Nhờ mấy sản phẩm của nhà mình. Có một nhà buôn ở đây
còn khá nhiều nước hoa hiệu Farr. Con lấy ở đó.

Mắt Siegmund Kern sáng lên. Ông cười buồn bã:

- Bây giờ con phải đi gõ cửa từng nhà bán dạo. Ludwig, tha lỗi cho ba.

Kern cố nuốt trôi một vật gì đó vừa trào lên cổ:

- Có gì đâu ba! Đó là trường học tốt nhứt thế giới. Người ta học cách sống từ chỗ thấp nhứt.

- Nhớ giữ đừng để bịnh.

- Con khỏe lắm, ba đừng lo.

Cả hai cùng đi ra.

- Con còn nhiều hy vọng, Ludwig…

Kern không khỏi nghĩ, thế nầy mà còn nhiều hy vọng hay sao... Anh an ủi cha:

- Tất cả rồi đâu vào đó. Tình trạng nầy không thể kéo dài.

Siegmund nhìn thẳng phía trước, giọng ông ấm lại:

- Phải Ludwig. Chúng ta rồi sẽ đoàn tụ, lúc đó có mẹ con… tất cả những gì ở đây đều qua đi, chẳng còn nhớ tới nữa…

Ngừng một lát, ông tiếp giọng đều đều của một kẻ sám hối:

- Nếu không phải lỗi tại ba thì con vẫn còn tiếp tục học.

- Nhưng, không có con...

- Con cố giữ sức khoẻ. Con không lấy thuốc hút sao... Dầu sao ba cũng là ba của con. Ba muốn cho con một vật gì.

- Dạ, ba cho con.

- Đừng quên ba. môi người cha run run, ba không hề có ý nghĩ xấu. Dầu
không đủ sức làm nhưng ba vẫn lo về sự sống của con. Thôi, ba đi, con
của ba.

Anh nhìn theo cha mình. Anh đã hứa là sẽ viết thơ và sẽ tới thăm nhưng
anh biết rằng đây là lần gặp nhau cuối cùng. Anh đứng đó nhìn theo, nhìn
theo cho tới khi người cha đi khuất. Trước mắt anh là một khoảng trống.

Kern quay vào. Marill vẫn còn ngồi đọc báo với nét mặt vừa khinh bỉ vừa
chán chường. “Năm mười tuổi, mồ côi cha lẫn mẹ…” Vậy mà vẫn có người đủ
can đảm nói lên, dường như tới năm mươi tuổi vẫn chưa thành nhân, nếu
cha mẹ đã qua đời.

Ba hôm sau, Ruth Holland đi vienne. Ruth nhận được điện tín của một
người bạn gái cho biết có thể cho nàng ở đậu. Ruth nuôi hy vọng tới đó
kiếm việc làm để tiếp tục học.

Đêm lên đường nàng và Kern tới quán ăn Porcelet Noir. Từ lâu rồi, họ chỉ được ăn có món súp bình dân.

Pacelet Noir là một quán ăn nhỏ, giá cả vừa phải nhưng thức ăn ngon.
Chính Marill đã giới thiệu nơi nầy cho Kern. Anh định sẽ dùng món thịt
trừu, và nhẩm tính khoản tiền trong túi, anh biết còn đủ để gọi thêm
bánh kem tráng miệng. Anh nhớ có lần Ruth đã nói rằng thích bánh kem.

Nhưng lúc tới quán, Kern được cho biết là đã hết thịt trừu. Kern dò dẫm từng thức ăn

trên thực đơn. Phần lớn đều mắc tiền. Trong khi đó, gã hầu bàn không ngớt miệng giới thiệu:

- Thịt xông khói với su, sườn heo chiên ăn sà - lách, gà giò quay, gan tươi.

Kern hỏi Ruth:

- Em định dùng món gì thay thế thịt trừu...

Tuy hỏi nhưng Kern đã thầm tính là sẽ gọi món sườn heo, và như thế sẽ không còn dủ tiền để gọi món tráng miệng bánh kem.

Ruth nhìn vào thực đơn:

- Xúc xích với sà - lách và khoai tây rẻ tiền hơn.

- Không được. Không đúng với một bữa ăn giã biệt.

- Em thích món ăn này lắm. Cứ ăn súp bình dân hoài, bây giờ được ăn thế nầy là sang quá rồi.

- Em thích sườn heo chiên không...

- Đắt lắm.

Kern gọi:

- Cho hai dĩa sườn heo chiên, thứ sườn to.

Gã hầu bàn mặt như sáp:

- Dạ chỉ có một cỡ thôi.

Kern lại Ruth:

- Em muốn dùng món gì trước...

- Không. Chỉ món sườn là đủ rồi.

Kern gọi thêm một chai rượu chát rẻ tiền. Gã hầu bàn khinh khỉnh rút lui
vì thừa biết hạng khách nầy chẳng bao giờ thừa tiền để thưởng.

Quán ăn gần như trống vắng vì giờ ăn tối đã qua lâu. Chỉ còn một người
khách duy nhất ngồi ở một bàn trong góc. Người khách đơn độc nầy đeo
kính một tròng. Ông ta ngồi với một ly bia và nhìn chăm chú đôi bạn trẻ.

Kern bực mình:

- Sao ông ta không đi cho khuất mắt.

Ruth gật đầu:

- Ông ta có vẻ…

- Chắc không phải dân tỵ nạn đâu. Có thể là ngược lại.

- Mình đừng thèm nhìn về phía ông ta…

Kern cố dằn được vài phút rồi lại nhìn sang. Người khách vẫn còn nhìn họ như dò xét. Kern tức tối:

- Ông ta muốn gì mà nhìn kiểu đó…

- Có thể là nhân viên mật vụ Gestapo. Em nghe nói, chúng có mặt ở nhiều nơi.

- Có cần anh sang hỏi hắn không...

Ruth vội vàng chụp tay Kern:

- Đừng!

Hai dĩa sườn được mang ra. Sườn vừa chín tới vừa mềm vừa béo đượm lại
them có xà lách tươi trông đến thèm chảy nước miếng. Thế nhưng, cả Kern
và Ruth đều chỉ ăn lấy lệ vì đang hồi hộp bởi sự ngồi lì của ông khách
kỳ lạ. Kern trấn an Ruth:

- Chắc không phải theo dõi mình. Đâu có ai biết mình tới đây.

- Cố nhiên là không phải đặc biệt theo dõi mình. Có lẽ vì tình cờ. Hắn thấy lạ và chú ý…

Thức ăn được dọn đi. Kern nhìn mau ra phía sau. Anh muốn cho Ruth vui
trước giờ chia tay nhưng bây giờ sự có mặt của con người kia đã phá hư
tất cả. Anh bực bội đứng lên, trong đầu vừa nảy sanh một ý định.

- Đợi anh một chút.

Ruth sợ hãi:

- Anh định làm gì... Ngồi đây đi.

- Không, không, anh không làm gì hắn đâu. Anh muốn nói chuyện với chủ quán.

Luôn luôn phòng xa nên lúc đi Kern mang sẵn theo hai lọ nước hoa nhỏ
nhỏ. Bây giờ, anh muốn đổi hai chai dầu thơm đó để lấy hai đĩa bánh kem.
Sự thực hai chai nước hoa của Kern trị giá gấp mấy lần hai đĩa bánh
nhưng lúc nầy chẳng còn gì có giá trị hơn là sự vui lòng của Ruth, nhứt
là sau khi đã khổ sở nếm món sườn chiên. Nếu được, Kern sẽ kỳ kèo thêm
cho mỗi người một tách cà phê.

Vừa nghe Lern trình bày xong, người chủ quán trợn mắt:

- Định ăn quỵt hả... Không có tiền sao vác mặt tới ăn... Không có đổi chác gì hết. Để rồi Cảnh sát giải quyết.

Kern cố dằn giận:

- Tôi có thừa tiền đây.

Anh ném tiền lên mặt bàn. Người chủ quán vừa lấy tiền vừa hỏi:

- Cậu là thực khách hay bán dạo...

Kern không thể dằn hơn nữa:

- Bây giờ tôi là khách. Còn ông, ông là…

- Khoan đã, xin cho tôi nói.

Tiếng người bất thần chen vào từ phía sau làm Kern giựt mình quay phắt
lại. chính là người khách mang kính một tròng. Người đàn ông kỳ lạ nói
với Kern:

- Tôi có thể nói với cậu vài câu chớ...

Kern theo ngay ông ta tới một cái bàn trống. Anh đang giận sôi nên đã tới mức liều. Người lạ hỏi:

- Có phải cô cậu là di dân Đức không...

Kern nhìn thẳng vào mắt ông ta:

- Chuyện đó có liên hệ gì tới ông...

Người lạ vẫn thản nhiên:

- Không. Tôi chỉ nghe cậu đề nghị đổi chác với người chủ quán. Tôi muốn mua chai nước hoa đó.

Kern nghĩ là mình đã nghi ngờ đúng. Nếu bán chai nước hoa bây giờ, anh
sẽ bị người lạ bắt quả tang về tội buôn bán bất hợp pháp và sẽ bị bắt
tức khắc.

- Không. Tôi không bán.

- Sao vậy...

- Tôi không hành nghề thương mãi.

- Như vậy thì mình trao đổi với nhau. Cậu trao tôi chai dầu thơm, tôi xuất tiền trả cậu bánh kem và cà phê.

Kern vẫn đề phòng:

- Tôi không hiểu ông muốn nói gì.

Người lạ cười hiền:

- Tôi biết là cậu nghi ngại tôi. Đây, tôi xin nói rõ cậu nghe. Tôi là
người ở Bá Linh và tôi sẽ trở về đó trong một tiếng đồng hồ nữa. Còn cậu
thì không về được…

- Phải, nhưng có sao đâu!

- Chính vì vậy mà tôi muốn giúp cậu một việc nho nhỏ. Trước kia tôi đã
từng là Đại đội trưởng và một trong những binh sĩ can đảm của tôi là
người Do Thái. Cậu bằng lòng chớ...

Kern đưa chai dầu thơm cho ông ta:

- Xin lỗi. Tôi cứ ngỡ ông là…

Người Bá Linh cười:

- Tôi biết. Thôi, cậu trở lại với cô bạn đi, kẻo cô ấy sợ. Chúc cả cô cậu đều may mắn.

Kern bắt lấy bàn tay ông ta vừa chìa ra:

- Cám ơn. Cám ơn ngàn lần.

Kern đi trở về bàn, sung sướng gần như lảo đảo:

- Ruth, chuyện huyền hoặc như ông già Noel hay là anh đang điên...

Gã bồi bàn khệ nệ bưng tới một cái dĩa bằng bạc bên trên là một chiếc
bánh kem ba tầng. Trên mâm lại còn có cả cà phê. Ruth ngạc nhiên đến
lạnh người:

- Ủa, cái gì vậy...

Kern vừa rót cà phê ra tách vừa nheo mắt:

- Mỗi đứa có quyền lấy một phần. Em chọn đi.

Thấy cả hai chỉ ăn có phần đã lấy ra thôi, gã hầu bàn hỏi:

- Dạ có cần tôi gói lại không...

Kern nhíu mày:

- Gói lại... Gói cái gì...

Gã hầu bàn chỉ cái bánh ba tầng:

- Tất cả cái này là của ông.

Kern hiểu ra. Anh quay người về phía sau:

- Ủa, ông hồi nãy đâu...

- Dạ, ông ấy đi rồi.

Kern xoay người lại, bảo Ruth:

- Aên đi em, lấy thêm phần có mứt đi.

Sau khi đã dồn đầy hai đĩa, Kern bảo:

- Đủ rồi. Gói phần còn lại hai gói. Ruth, em mang theo một gói đi đường.

Một lúc sau gã hầu bàn lại mang ra một cái mâm bạc lớn, bên trên có một chai săm - banh. Kern cười:

- Săm - banh... Tôi có gọi đâu...

Gã hầu bàn chỉ ra phía cửa:

- Chính ông khách lúc nãy dặn.

Ngay lúc đó, người chủ quán tới cười vã lã:

- Cậu đừng giận… Lúc nãy tôi đùa nhưng không khéo…

Mắt Kern mở trừng trừng chiếu thẳng vào chai săm - banh. Gã hầu bàn giải thích:

- Ông hồi nãy trả tiền rồi.

Kern dụi mắt:

- Mình có ngủ mê không, Ruth... Em đã uống săm - banh lần nào chưa...

- Chưa, em chỉ thấy người ta uống trên màn ảnh.

Kern cố bình tĩnh lại, thừa cơ hội mắng xéo, người chủ quán:

- Ông thấy không, chỉ có một chai nước hoa hiệu Farr của nhà máy sản
xuất Kern là đã được như thế nầy rồi. Loại nước hoa nầy phải có người
sành điệu mới hiểu nổi giá trị.

Chủ quán cười gượng:

- Tôi chỉ giỏi về rượu thôi.

Nói xong, ông ta trở về quầy. Kern bảo Ruth:

- Anh bắt đầu tin ở phép lạ rồi. Ngay bây giờ nếu nếu có hai con bồ câu
trắng từ ngoài bay vào, miệng ngậm thẻ thông hành có hiệu lực năm năm
hay một giấy phép hành nghề vô thời hạn, anh cũng không ngạc nhiên.

Uống hết chai săm - banh, hai người đã ngà say. Họ đứng lên định ra về thì người chủ quán ngăn lại:

- Cậu còn chai nước hoa nào loại đó không... Tôi muốn… cho vợ tôi…

Kern tỉnh táo ngay. Anh mò mẫm các túi:

- À, có đây. Không ngờ lại bỏ túi hai chai. Nhưng bây giờ thì không phải với điều kiện lúc nãy. Hai mươi cua - ron.

Người chủ quán tính nhẩm thật mau. Với tất cả các món ăn và chai sâm -
banh mà người kia chịu, đúng giá là ba chục cua - ron. Như vậy, nếu trả
hai mươi, ông ta còn lời tới mười cua - ron. Tuy nhiên, ông ta vẫn trả
giá:

- Mười lăm.

- Hai chục.

Kern làm như sắp cho chai nước hoa vào túi.

- Thôi cũng được.

Người chủ quán móc ra một tờ giấy bạc nhầu nát trao cho Kern. Hắn định
sẽ nói với cô nhân tình của hắn là đã phải trả đến năm mươi cua - ron.
Như thế hắn khỏi phải may cho cô ta cái nón tốn tới năm chục cua - ron.
Lợi gấp đôi.

Kern và Ruth trở về lữ quán và đi ra nhà ga với chiếc vali của Ruth. Dọc đường, Ruth hoàn toàn im lặng.

- Đừng buồn, Ruth. Anh sẽ tới đó tìm em. Trong vòng tám hôm hay trễ lắm
là chỉ một hay hai ngày sau là anh phải rời nơi đây. Anh sẽ tới Vienne.
Em có muốn anh tới đó không...

- Anh phải tới. Nhưng cố làm sao thu xếp cho tiện.

- Tại sao không chỉ bảo thế nầy thôi: Anh phải tới.

Ruth nhìn Kern:

- Có lẽ tại em lo ngại cho anh.

Một lúc sau, Kern lại an ủi:

- Đừng buồn nữa, Ruth. Lúc nãy em còn vui mà.

Ruth bỗng lộ vẻ bối rối:

- Em sẽ kể cho anh nghe một chuyện nhưng để ý gì cả. Lắm lúc em tự cảm
thấy không còn biết đầu đuôi gì nữa. Bữa nay, chắc là tại rượu. Mình lại
đằng nầy. Chỉ còn mấy phút nữa thôi.

Cả hai ngồi trên một ghế đá công trường. Kern ôm vai người yêu:

- Vui lên, Ruth. Ngoài niềm vui ra chẳng còn có gì đáng kể. Nói như thế
là sai. Nhưng với những kẻ như mình, chỉ cần một chút vui là gần như đủ
cả.

Ruth nhìn thẳng trước mắt:

- Em cũng muốn vui lắm nhưng cảm thấy nặng nề làm sao ấy. Em muốn nhẹ
nhàng thanh thoát. Thế mà bất cứ việc gì em làm cũng vụng về, nặng trĩu.

Nghe giọng nói hơi khác lạ, Kern nhìn vào mặt người yêu bắt gặp toàn
nước mắt. Ruth tiếp tục khóc trong câm lặng. Nàng hất tóc ra sau:

- Em không biết tại sao lại khóc, nhứt là trong lúc nầy. Đừng nhìn em, đừng nhìn em nữa…

Kern vỗ về:

- Ruth đừng nói vậy.

Ruth kề sát mặt tới, đặt tay lên vai Kern. Không tự chủ nổi, Kern kéo
nàng vào, ôm lấy và hôn như mưa lên đôi mắt nhắm nghiền, lên vành môi
khép kín… như từ khước…

Nhưng rồi đột nhiên, Ruth như người chợt tỉnh:

- Anh, anh không hiểu em…

Và nàng gục đầu vào vai Kern, mắt vẫn nhắm nghiền nhưng môi mở hé ra dịu ngọt như trái chín.

Tới nhà ga, Kern chạy đi mua một bó hoa hồng. Anh thầm cám ơn người lạ, mang kính một tròng và ông chủ quán Porcelet Noir.

Ruth tỏ ra xúc động khi Kern quay lại với bó hoa:

- Anh mua hoa. Trời, hoa hồng! Người ta tiễn đưa tôi như một nữ minh tinh.

Kern kiêu hãnh bảo:

- Như vợ của một nhà doanh thương mới đúng.

- Nhưng các nhà doanh thương không hề biết tặng hoa, Ludwig.

- Biết chớ. Thế hệ mới mà.

Kern đặt va - li và gói bánh vào lưới đựng hành lý. Ruth nhìn Kern ra
đứng chỗ vắng người. Nàng ôm lấy đầu Kern, nhìn vào mắt người yêu:

- Được anh tiễn đưa, em sung sướng lắm. Nhưng bây giờ, anh về đi. Về đi để em lên xe. Em không khóc nữa đâu. Thôi, về đi anh.

Kern vẫn đứng yên:

- Anh không sợ những cuộc chia tay. Anh đã chứng kiến quá nhiều rồi.

Xe lửa chuyển mình. Ruth lên xe và Kern đứng nhìn theo cho tới khi mất
hút. Trên đường về, anh có cảm tưởng như cả thành phố Prague đều trống
vắng.

Tới trước lữ quán, Kern gặp Rabe đứng một mình. Anh chìa gói thuốc mời.
Rabe nhảy lùi lại và đưa tay thủ thế. Kern nhìn ông ta với tất cả ngạc
nhiên. Rabe lắp bắp:

- Xin lỗi cậu… Tôi bị ám ảnh mãi nên… Phản ứng thất thường.

Ông ta chậm chạp rút một điếu thuốc.

Từ mười lăm ngày qua, Steiner làm hầu bàn cho quán”cây xanh”. Đêm đã
khuya, người chủ quán đã đi ngủ cách đó hai tiếng đồng hồ, trong quán
chỉ còn vài người khách.

Steiner khép các cửa sổ lại:

- Quán đóng cửa.

Một khách buôn đồ gỗ, mặt như trái dưa chuột phản đối:

- Còn uống một ly nữa mà.

- Được. Mikolash hả...

- Không. Không uống rượu chát Hung - ga - ri nữa, cho thứ nào ngon và mạnh hơn.

Steiner mang tới một chai Quetsche. Người khách mời:

- Uống với bọn nầy một ly.

- Cám ơn. Sợ uống nữa là say luôn.

- Cứ say luôn. Đêm nay tôi cũng phải say. Bạn biết không: Một đứa con
gái thứ ba! Sáng nay cô đỡ đến cho hay “xin chúc mừng ông Blau, bà vừa
mới sanh một cháu gái rất khoẻ mạnh”. Thế mà mình cứ tính lần nầy phải
có con trai. Ba đứa con gái, không người nối giòng. Có tức không... Bạn
hiểu chớ...

Steiner đưa đẩy:

- Phải rồi. À, ông có cần mang một ly lớn ra không...

Nhà buôn gỗ đập mạnh tay lên bàn:

- Má nó. Bạn đề nghị hay lắm. Ly lớn mới phải…

Steiner và mấy người khách uống chung nhau một tiếng đồng hồ. Tới lúc
đó, nhà buôn đồ gỗ đã quên đầu, quên đuôi. Ông ta phàn nàn là vợ đã sanh
luôn ba đứa con trai…

Khách đã ra về, Steiner nghe đầu nặng như chì. Anh ngồi lại một lúc, dọn
dẹp đồ đạc rồi về phòng riêng lấy ảnh vợ ra nhìn ngắm. Anh nghĩ là vào
khoảng những ngày sau nầy người vợ đã xin ly dị theo lời anh. Tự nhiên,
anh xé tấm ảnh ra làm đôi, ném xuống đất, anh lẩm bẩm:

- Mình điên mất, Phải đi một vòng giải khuây. Bây giờ mình đã là Johann Huber chớ đâu phải Steiner.

Anh uống thêm một ly nữa, đóng cửa phòng và ra đường. Một cô gái cặp kè anh:

- Về nhà nghe cưng...

- Ưø.

Cả hai đi bên nhau. Cô gái điếm thỉnh thoảng nhìn trộm anh ta. Một lúc sau, cô ta hỏi:

- Sao không nhìn em...

- Có chớ, nhìn đây.

Anh vừa đáp, vừa ngước mắt lên.

- Bộ em xấu lắm hả...

- Không. Đẹp lắm.

- Sao anh nói ít quá vậy...

- Tại có tật không nói nhiều.

- Anh tặng em cái gì...

- Không biết. Muốn tặng gì...

- Ơû suốt đêm hả...

- Không.

- Vậy thì hai mươi Đức kim...

- Mười thôi. Nghèo lắm.

- Anh không có vẻ gì là nghèo cả.

- Có nhiều người không có vẻ gì là thủ tướng nhưng vẫn làm Thủ tướng.

Cô điếm cười:

- Anh nói chuyện có duyên quá. Được, mười thôi. Em có căn phòng đẹp lắm. Nhứt định anh sẽ vừa lòng.

Steiner vẫn nhát gừng:

- Thiệt hả...

Về tới phòng riêng ả điếm, Steiner cứ ngồi nhìn chòng chọc khiến cô ta kêu lên:

- Làm gì nhìn người ta dữ vậy... Mắt anh dễ sợ như mấy tay sát nhân. Chắc lâu lắm anh không gần đàn bà...

- Tên gì...

- Tên Elvira. Đừng cười nghen, tại má em thích những cái tên vĩ đại. Lại nằm với em đi.

Steiner lắc đầu:

- Kiếm cái gì uống trước đã.

Ả điếm hỏi ngay:

- Nhưng còn tiền không...

Steiner gật đầu. Elvira tới cửa gọi mụ chủ chứa vào. Steiner không thèm nhìn bà ta:

- Cho rượu mạnh. Quetsch, Kirsch hay cái gì cũng được.

Mụ chủ chứa và ả điếm láy mắt nhau. Elvira nói lớn:

- Lấy Kirsh đi. Nhưng tới mười đồng nghe cưng.

Steiner lẳng lặng móc tiền ra trả. Mụ chủ nói vài câu nịnh bợ và rút lui. Steiner bảo cô gái điếm:

- Đưa ly nước uống đây.

Hắn rót rượu đầy ly rồi uống cạn một hơi.

Elvira lo ngại:

- Chúa ơi! Uống vậy là điên luôn.

Steiner nhìn ả điếm:

- Lại ngồi gần đây.

Aû điếm vẫn chưa hết sợ:

- Hay là mình đi dạo một lúc. Vào rừng tốt hơn.

Steiner ngẩng đầu lên:

- Vào rừng...

- Vào rừng hay tới đồng lúa, mùa hè mà.

- Đồng lúa… mùa hè... Sao lại nghĩ tới đồng lúa...

Elvira không yên tâm nhưng cố làm dịu:

- Tại mùa hè mà cưng. Ai cũng thích đi dạo ở đồng lúa vào mùa hè, cưng biết mà.

- Đừng giấu chai! Có phải mình vừa nói tới một cánh đồng lúa và mùa hạ...

- Phải rồi cưng. Mùa đông lạnh lắm. Thôi, đi nằm đi cưng.

Steiner bỗng hỏi:

- Sống như thế nầy có hạnh phúc không...

- Phải có mới sống nổi chớ.

- Ah, vậy thì câm miệng lại. Tắt đèn đi.

Elvira tắt đèn. Steiner rót thêm rượu vào ly, bàn tay hắn run run. Hắn tới bên cửa sổ:

- Lại đây.

Cô gái điếm áp mình vào hắn. Trông cô ta chín mùi như đồng lúa, mùi da
thịt đàn bà cũng như hàng vạn người đàn bà khác nhưng đối với Steiner
thì chỉ có một thôi. Hắn thì thầm gọi tên của vợ:

- Marie.

Ả điếm cười hưng hức:

- Cưng say rồi. Em tên là Elivra mà…
Về Đầu Trang Go down
https://duonghoalac-hoabinh.forumvi.com
Admin
Admin
Admin
Admin

Tổng số bài gửi : 1754
Điểm : 6794
Ngày tham gia : 22/12/2010
Tuổi : 38
Đến từ : Hà Nội
Level: 38 Kinh nghiệm: 1754%
Sinh mệnh: 1754/100
Pháp lực: 38/100

NGƯỜI ĐIỀU HÀNH
Phù hiệu: Bản du ca cuối cùng - Erich Maria Remarque POLLICE

Bản du ca cuối cùng - Erich Maria Remarque Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Bản du ca cuối cùng - Erich Maria Remarque   Bản du ca cuối cùng - Erich Maria Remarque Icon_minitimeThu Apr 14, 2011 7:49 pm

Chương 8

Kern xin gia hạn lưu trú thêm được năm ngày và ngay sau
đó, anh ra đi. Nhà chức trách cho Kern một vé xe lửa đi tới biên giới.
Một nhân viên quan thuế Tiệp hỏi Kern:

- Không giấy tờ hả...

- Không.

- Vậy thì vào trong. Có sẵn mấy người rồi. Chờ hai tiếng đồng hồ nữa.

Kern vào bên trong. Ở đó đã có sẵn ba người rồi, một người đàn ông xanh mét cùng bà vợ và một lão già Do Thái.

Kern đặt va - li xuống và ngồi lên. Anh nhắm mắt lại vì mệt mỏi. Anh
cũng biết là quãng đường đi bộ khá xa nên cố ngủ một giấc để lấy sức.

Người đàn ông xanh mét nói với vợ:

- Hễ qua được thì ổn thoả.

Người vợ không trả lời. Y nói tiếp:

- chắc chắn là qua được. Họ ngăn mình lại làm gì...

Người đàn bà không tin tưởng ý chồng:

- Vì họ không muốn mình vào đất họ.

- Nhưng mình cũng là con người…

Dại dột, Kern nghĩ thế. Anh còn nghe người đàn ông nói thêm gì nữa đó, rồi anh ngủ thiếp đi.

Kern thức dậy lúc nhân viên quan thuế vào bảo đi ngay. Họ đi qua những cánh đồng và tới một khu rừng cây lá um tùm.

Người của sở quan thuế dừng lại, bảo:

- Mấy người theo đường mòn nầy, giữ phía bên phải. Khi ra tới đường lớn thì quẹo trái. Chúc may mắn.

Ông ta biến mất vào bóng đêm. Bốn người vẫn còn đứng yên, chưa biết làm gì. Người đàn bà hỏi:

- Có ai biết đường không...

Kern đáp:

- Để tôi đi trước cho. Tôi đã quen đường nầy cách đây một năm.

Họ dò dẫm trong bóng tôi. Trăng vẫn chưa lên. Những lá cỏ ươn ướt cọ vào chân họ và khu rừng hiện ra, gió lớn nổi lên.

Họ tiếp tục đi. Kern nghe thấy tiếng những bước chân của ba người theo
sau. Thình lình có ánh đèn loé lên phía sau họ và có tiếng hô to:

- Đứng lại. Không được cử động.

Kern nhảy vào một lùm cây. Anh chạy thật mau, thỉnh thoảng chạm vào một
thân cây. Anh mò mẫm một lúc lâu rồi tới một bụi gai. Anh ném va - li
lên đó. Người đàn bà chạy cùng một hướng với Kern. Anh khẽ bảo:

- Bà trốn sau bụi nầy, mau đi.

- Chồng tôi…

- Bà ở đây. Tôi trèo lên kia.

Kern thoăn thoắt leo cây. Tới một cháng ba, anh ngồi xuống, phía dưới là
cành lá. Kern không nhìn thấy người đàn bà nhưng biết bà ta vẫn còn đó.

Từ xa, có tiếng phân trần của người Do Thái già và có tiếng người gạt ngang:

- Không cần biết. Không có giấy thông hành là không được đi qua.

Ngay lúc đó, dường như người đàn bà đang nói một mình rồi bỏ đi. Kern
ngồi yên. Vài phút sau, ánh đèn bấm bắt đầu rọi lên các tàng lá. Tiếng
chân người rầm rập tới. Kern ép sát mình vào thân cây. Bỗng người đàn bà
nói lớn:

- Nó ở trên cây nầy. Tôi thấy nó leo lên.

Aùnh đèn vượt thẳng lên và tiếng quát tháo:

- Xuống ngay! Hay chờ nổ súng...

Kern suy nghĩ thật mau. Anh leo xuống. Aùnh đèn bấm chiếu thẳng vào mặt Kern:

- Thông hành đâu...

- Nếu có thông hành, tôi còn trèo lên đó làm chi.

Kern quay nhìn người đàn bà đã tố cáo mình. Chẳng những bà ta không xấu hổ lại còn mắng mỏ:

- Tại cậu mà. Cậu muốn chạy thoát một mình bỏ tụi nầy ở lại đây.

Rồi bà ta rú lên:

- Không ai được đi một mình. Phải ở lại cả!

Người cảnh binh quát:

- Câm miệng, đứng chung lại một chỗ! Các người có thể bị tù, hiểu
chưa... Vượt biên giới bất hợp pháp. Nhưng ai hơi đâu lo nuôi ăn! Quay
ra sau, bước!

Viên cảnh binh vẫn chưa hả tức:

- Nhớ là lần sau, bọn nầy sẽ bắn không báo trước.

Kern lấy va - li và lẳng lặng theo ba người kia. Toán cảnh binh theo
sau, đèn bấm trên tay. Kern không khỏi nghĩ, thật là bi thảm, ngay cả
những kẻ đàn áp mình mà mình cũng không có dịp nhìn rõ mặt. Chỉ có những
tiếng quát tháo và những vòng tròn ánh sáng đẩy họ trở lui.

Cả bốn người thất thểu đi cho tới khi ánh đèn bấm khuất mất sau lùm cây. Người đàn ông xanh mét ngượng ngùng nói với Kern:

- Xin lỗi cậu… vợ tôi đã mất khôn… cậu đừng buồn…

- Tôi có còn biết buồn là gì nữa đâu.

- Cậu hiểu cho, quá sợ người ta dễ thành điên.

- Hiểu thì tôi hiểu lắm nhưng bảo tha thứ thì… hơi khó. Tôi sẽ cố gắng quên.

Kern dừng lại. Họ đang ở trong một khoảng rừng thưa. Những người kia
cũng không đi nữa. Kern đặt va - li xuống, nằm dài trên cỏ. Người đàn bà
đi về phía Kern. Chồng bà ta gọi “Anna” nhưng bà ta vẫn đi tới đứng
ngay chỗ Kern nằm:

- Cậu không muốn đưa chúng tôi trở lại, hả...

- Không.

- Aø, cậu muốn cho chúng tôi bị bắt mà. Đồ khốn khiếp!

Người đàn ông gọi to hơn:

- Anna!

Kern nói vói:

- Cứ để như thế. Không nên để ẩn ức.

Người đàn bà hét lớn:

- Đứng lên.

- Tôi muốn nằm đây. Còn bà muốn làm gì thì làm. Cứ đi thẳng một lúc nữa là tới đúng trạm quan thuế Tiệp.

- Quân Do Thái chó má!

Kern cười:

- Tôi chỉ đợi bà nói câu đó thôi.

Người đàn ông xanh mét thì thầm vào tai vợ và lôi bà ta đi. Người đàn bà khóc ấm ức:

- Tôi biết mà, nó sẽ quay trở lại và sẽ vượt qua. Mình phải… nó nên chỉ cho mình…

Người đàn ông dìu vợ đi về phía khu rừng. Kern lấy một điếu thuốc. Ngay
lúc đó, anh chợt thấy lão già Do Thái nằm cách đó vài thước lồm cồm ngồi
dậy. Ông ta nói:

- Thật là phiền phức, người ngợm gì đâu…

Kern không đáp. Anh đốt thuốc. Lão già hỏi:

- Mình ngủ đêm ở đây à...

- Ơû lại đây tới ba giờ. Đó là lúc tốt nhứt. Bây giờ, họ vẫn còn canh phòng chặt chẽ.

Lão già bình thản nói:

- Vậy thì đợi tới ba giờ.

Họ ngồi im lặng. Sao bắt đầu sáng tỏ trên nền trời. Một lúc lâu lão già lên tiếng:

- Tôi cần phải tới Vienne.

- Phần tôi thì chỉ biết là cần phải đi, không biết tới đâu...

Lão già nhai một cọng cỏ:

- Đó là những việc cần xẩy ra. Dầu sao thì cũng có những vùng đất mới mà mình có thể đến. Chỉ cần biết chờ đợi.

- Chờ đợi là việc bắt buộc làm. Nhưng trên thực tế, mình chờ đợi cái gì...

- Kể ra thì cũng không thể biết là gì. Có khi việc đang chờ hiện tới rồi mình thất vọng. Vậy là lại chờ đợi nữa.

Kern lại nằm dài ra.

- Có thể là như vậy.

Một lúc khá lâu, lão già lại nói:

- Tên tôi là Moritz Rosenthal. Tôi ở Godesberg - le - Rhin.

Ông ta lấy trong túi ra một chiếc áo thun xám quàng lên vai. Trông ông lão như một người lùn gánh xiếc.

- Đôi lúc mình cảm thấy kỳ lạ đã có một cái tên, nhứt là ban đêm, ông bạn nhỏ nghĩ sao...

Kern nhìn nền trời tối:

- Ngay cả khi mình không có thông hành. Tên con người cần phải ghi một nơi nào đó, nếu không thì nó không thuộc về mình.

Gió lộng trên các tàng cây. Rừng khua xào xạc. Rosenthal hỏi:

- Họ có dám bắn mình không...

- Không rõ. Nhưng chắc là không.

Lão già ngẩng đầu:

- Bảy mươi tuổi cũng có cái lợi. Nếu phải hy sinh cũng chỉ là phần nhỏ của cuộc đời.

Steiner đã tìm ra chỗ ở của các đứa con ông lão Seligmann đã chết khi
nhảy xuống xe Cảnh sát. Địa chỉ trong quyển kinh đã ghi đúng, nhưng
trong thời gian sau nầy người ta đã đưa các đứa bé đến một nơi khác.
Steiner đã phải tốn nhiều công mới tìm ra.

Ngôi nhà nằm ở khu phía Tây thành Vienne. Steiner phải mất cả tiếng đồng
hồ mới tới nơi. Anh lên thang lầu. Mỗi tầng lầu có ba phòng. Anh đốt
tới diêm quẹt thứ tư mới tìm thấy tấm bảng kim khí gắn ở cửa có khắc
chữ: “Samuel Bernstein. Thợ sửa đồng hồ”. Anh gõ cửa.

Có tiếng thì thào bên trong và nhiều tiếng động tản mác. Rồi có tiếng người thận trọng hỏi:

- Ai đó...

- Tôi có một vật trao lại cho ông. Một cái vali.

Thình lình Steiner có cảm tưởng như đang bị nhìn trộm. Anh quay phắt
lại. Cửa phòng phía sau đã mở ra không tiếng động. Một người ốm yếu đang
đứng ở ngưỡng cửa. Steiner đặt vali xuống:

- Ông muốn tìm ai... Bernstein không có ở nhà.

- Tôi đến tìm mấy đứa con của lão Seligmann. Hôm tai nạn xảy ra, có tôi tại chỗ.

Người đàn ông nhìn Steiner từ đầu xuống chân rồi nói vọng vào cánh cửa còn khép:

- Moritz, cho ông ta vào đi.

Có tiếng khua dây xích, tiếng mở khóa và cửa mở ra. Steiner cố mở to mắt để nhìn rõ trong bóng mờ. Anh ta bỗng kêu lên:

- Ủa! Có phải cha Moritz không...

Đúng là Moritz Rosenthal. Chiếc áo thun nằm trên vai:

- Chính tôi đây. Nhưng ông là… ủa, Steiner! Chúa ơi, mắt tôi đã lòa rồi.
Đáng lẽ phải nhận ra ngay. Tôi được tin anh hiện đang ở Vienne. Mình
gặp nhau lần sau cùng cách đây bao lâu...

- Cách nay gần một năm, cha Moritz.

- Ở Prague hả...

- Ở Zurich.

- Đúng rồi, ở Zurich, trong tù. Ở đó họ khá tốt. Mấy lúc sau nầy, tôi
hay lẫn lộn. Cách nay sáu tháng tôi ở Thụy Sĩ. Ở Bâle. Đồ ăn ngon tuyệt
nhưng lại không có thuốc lá như nhà tù Locarno. Ở đó họ còn chưng trong
phòng giam một bình hoa. Đi khỏi đó, tôi tiếc quá. Milan thì không bằng…

Ông ta ngừng lại, nhường chỗ:

- Vào đi, Steiner. Mình đứng ngoài nói chuyện giống như hai kẻ gian ôn kỉ niệm.

Steiner vào trong. Căn phòng gồm có một nhà bếp và một buồng nhỏ. Tất cả
đồ đạc gồm có vài cái ghế, một cái bàn, một cái tủ, hai tấm nệm và vài
tấm mền. Trên bàn có một số dụng cụ, chen lẫn vào đó mấy cái đồng hồ reo
rẻ tiền và một cái đồng hồ khác mà vỏ đóng theo kiểu một ngôi nhà xưa,
quả lắc do các thiên thần kéo và kim chỉ giây là một lưỡi hái tử thần.
Trên lò bếp là một ngọn đèn đốt bằng hơi, ánh sáng tủa ra màu trắng
xanh. Bên cạnh đó là một nồi súp bốc khói.

Rosenthal thở dài:

- Tôi đang cho mấy đứa nhỏ ăn. Lúc tới đây, tôi thấy chúng như những con chuột đói. Bernstein nằm nhà thương.

Ba đứa con của ông lão quá cố Seligmann ngồi gần bên bếp. Chúng không
chú ý tới Steiner. Mắt chúng dán chặt vào cái nồi. Đứa lớn khoảng mười
bốn tuổi, đứa nhỏ nhứt lối bảy tuổi.

Steiner chỉ chiếc vali:

- Đồ nầy là của các em.

Cả ba đồng loạt nhìn Steiner.

- Cha mấy em có nhờ tôi tìm mấy em.

Cả ba đứa bé vẫn nhìn Steiner đăm đăm. Không một đứa nào mở miệng. Mắt
chúng ngời chiếu như những viên huyền thạch. Steiner bứt rứt. Anh muốn
nói một lời gì đó chứa đựng lòng nhân đạo, tình thương, sự ấm áp song
tất cả những từ ngữ hiện ra trong óc đối với hắn có vẻ như vô lý và giả
tạo trước sự cô đơn của ba đứa trẻ đáng thương.

Đứa lớn nhứt hỏi. Giọng nó nhì nhằng:

- Trong đó có gì không...

- Tôi cũng không biết rõ. Một số đồ vật và có ít tiền.

- Vali thuộc về chúng tôi chưa...

- Thì là của các em đó.

- Tôi lấy được không...

Stiener không khỏi ngạc nhiên:

- Được chớ.

Thằng bé đứng lên. Nó gầy yếu, cái gầy yếu bởi thiếu ăn, thiếu ánh sáng
mặt trời. Từng bước một, nó đi tới cái vali, mắt vẫn đề phòng Steiner.
Rồi như con thú lén bắt mồi, nó chụp cái vali rồi nhảy lui lại thật mau.
Nó kéo cái vali sang phòng nhỏ sát đó. Hai đứa kia chạy ùa theo nó như
hai con mèo.

Steiner nhìn lão già Moritz. Ông lão gật đầu:

- Chúng nó biết tin cha chết có lẽ cũng đã khá lâu.

Ông vừa quậy nồi súp vừa tiếp:

- Chúng gần như đã chai ra. Chúng đã nhìn thấy mẹ và hai đứa em cùng
chết. Chuyện gì xảy tới quá nhiều lần không còn gây xúc động…

- Hoặc sẽ gây xúc động hơn.

Moritz Rosenthal lờ đờ Steiner:

- Với những người còn quá nhỏ thì không, kể cả những kẻ đã quá già. Đáng sợ nhứt là thời kỳ ở khoảng giữa.

Steiner gật đầu hiểu biết. Rosenthal đậy nắp nồi súp lại:

- Chúng tôi đã định đoạt cho chúng cả. Mayer sẽ đem một trong hai đứa
qua Rumani. Đứa thứ hai sẽ gởi vào Cô Nhi viện ở Locarno. Còn thằng lớn
thì nó ở tạm lại đây với Bernstien…

- Chúng nó có biết là sắp xa rời nhau không...

- Biết. Chúng cũng chẳng lộ vẻ buồn, trái lại còn cho là may mắn.

Đột nhiên, ông ta nhìn thẳng Steiner:

- Steiner, tôi và anh ấy quen nhau gần hai mươi năm. Tại sao y chết... Có phải nhảy từ trên xe xuống không...

- Đúng vậy.

- Chớ không phải bị ném xuống...

- Không đâu. Lúc đó có mặt tôi.

- Theo mấy người quen ở Prague thì y đã bị họ ném xuống đường. Được tin
là tôi tới đây ngay để săn sóc cho mấy đứa nhỏ. Chính tôi đã có lần hứa
với y như thế. Lúc hai đứa ở khoảng sáu mươi. Nhưng từ ngày Rachel chết y
gần như mất trí nhớ. Y có nhiều con lắm. Phần lớn dân Do Thái đều như
thế. Họ có óc gia đình. Nhưng tốt hơn hết là họ không nên có nhiều con.

Rosenthal quấn lại chiếc áo thụng qua vai bị nhiễm lạnh bất thần. Trông ông ta già héo thêm ra.

Steiner lấy bao thuốc ra:

- Ông ở đây được bao lâu rồi...

- Mới ba hôm. Lần đầu tiên chúng tôi bị bắt ở biên giới. Cùng đi với tôi
có một thanh niên. Y có nhắc tới anh. Để coi… à, y tên là Kern.

- Kern hả... Tôi biết cậu ta. Ở đâu...

- Cũng ở Vienne nhưng không biết chỗ nào.

Steiner đứng lên:

- Để tôi tìm xem hắn ở đâu. Tạm biệt cha Moritz, tạm biệt người khách
giang hồ. Chẳng biết rồi chúng mình có còn gặp lại nhau không.

Stiener bước qua phòng bên để chào từ giã mấy đứa bé. Cả ba đứa đang
ngồi. Trước mặt chúng là những đồ đạc lấy từ trong vali ra. Những cuồn
chỉ được chất thành một đống, bên cạnh đó là những lọn dây giày, một cái
túi đựng vài Đức kim, và mấy thước hàng chưa may. Giày vớ và quần áo
của người quá cố vẫn còn ở trong vali.

Đứa lớn nhìn Moritz Rosenthal. Mặt nó đỏ ửng, mắt sáng ngời. Nó chỉ vào đống đồ đạc trước mắt:

- Nếu bán tất cả những thứ nầy, ba đứa tôi sẽ có thêm chừng ba chục Đức
kim. Lầy tiền đó để mua vải tốt, len và hàng nỉ chắc sẽ có lời nhiều.
Ngày mai, tôi bắt đầu lúc bảy giờ.

Nó vẫn còn nhìn ông lão để chờ phản ứng. Moritz gật gù:

- Được. Cháu có thể bắt đầu lúc bảy giờ.

Thằng bé vẫn giữ khuôn mặt nghiêm trọng:

- Như vậy thằng Walter khỏi phải đi Rumani. Nó ở lại giúp tôi mua bán.
Chúng tôi sẽ cố làm để có ăn. Chỉ còn thằng Max là phải đi.

Max, đứa nhỏ nhứt gật đầu đồng ý.

Moritz đưa Steiner ra cửa:

- Mình đang ở trong một thời đại mà mọi ưu phiền đều không còn chỗ sống. Các nhu cầu càng ngày càng cấp bách hơn, Steiner.

Steiner thở dài:

- Cầu Trời cho thằng bé không bị bắt ngay ngày đầu…

Ông lão Moritz lắc đầu:

- Chúng nó đã khôn lắm rồi. Tất cả đều đã biết thế nào là không sống mống chết.

Steiner ghé quán Sperler. Lâu lắm rồi anh chưa trở lại đây. Từ ngày có
được giấy thông hành giả, anh tránh tất cả những nơi quen biết cũ.

Kern đang ngồi ở ghế, lưng dựa vào tường. Chân đạp trên vali, đầu ngã ra
sau, anh đang ngủ. Steiner rón rén ngồi xuống ghế bên cạnh, sợ làm Kern
thức. Nó có vẻ già dặn, Steiner nhận định. Già dặn và chính chắn.
Steiner nhìn khắp quán. Bên cạnh cửa, Thẩm phán Epstein ngồi với một
chồng sách và một ly nước lọc. Luật sư Silber không có mặt.

Gã hầu bàn không đợi gọi đã vội vã đến chỗ Steiner mặt gã sáng lên:

- Lâu quá không thấy ông ghé qua đây.

- Bồ còn nhớ tôi à...

- Sao lại không... Tôi lo cho ông quá! Lúc nầy khó lắm. Ông dùng cognac chớ...

- Cho tôi một ly. Còn luật sư Silber ra sao...

- Thêm một nạn nhân nữa. Bị bắt và trục xuất rồi.

- Còn ông Tchernikoff, người Nga...

- Gần một tuần nay không thấy.

Gã hầu bàn mang rượu tới và đặt mâm lên mặt bàn. Kern giựt mình thức dậy. Anh dụi mắt rồi đứng sững lên:

- Steiner!

Steiner dịu dàng:

- Khoan đã, uống ly cognac nầy đi. Mới ngủ ngồi mà có rượu mạnh đổ vào là khỏe mạnh gấp đôi.

Kern uống cạn ly rượu:

- Tôi đã đến đây để tìm anh hai lần.

Steiner cười:

- Đầu ngã dựa tường, chân đạp vali. Chắc chưa có chỗ ở...

- Chưa tìm ra.

- Vậy thì tới ở với tôi.

- Thật không... May quá! Tôi có mướn tạm một cái buồng nhỏ nhưng người ta không cho ở quá hai ngày vì sợ… Hôm nay là hết hạn.

- Ở với tôi, cậu khỏi phải sợ vì hơi xa trung tâm. Thôi mình đi ngay. Coi bộ cậu thiếu ngủ.

- Chắc vậy. Thấy mệt mà không rõ tại sao.

Steiner ra hiệu. Gã hầu bàn chạy tới, xông xáo như ngựa chiến bị nhốt
trong chuồng quá lâu vừa nghe được tiếng kèn xung trận. Steiner chưa trả
tiền nhưng gã đã nói trước:

- Cám ơn ông.

Và nhìn thấy khoảng tiền thưởng, gã xúc động, lắp bắp:

- Cám ơn ngài, muôn vạn lần cám ơn.

Ra tới ngoài, Steiner bảo:

- Bây giờ mình đi Prater.

- Đi đâu tùy ý anh. Bây giờ tôi thấy sung sức lắm.

- Nên đi xe điện để họ khỏi dòm ngó cái vali. Vẫn còn bán dạo xà - bông, dầu thơm phải không...

Kern gật đầu:

- Tôi đã đổi tên rồi, nhưng cậu cứ gọi tôi là Steiner. Tôi sẽ coi đó như
là một biệt danh để ứng biến. Tôi sẽ bảo họ đó là biệt hiệu nghệ sĩ của
tôi. Hoặc là tôi sẽ nói tên kia là hiệu. Tùy theo trường hợp.

- Hiện thời anh làm gì...

Steiner cười:

- Có một dạo tôi làm hầu bàn. Tới lúc anh chàng mà tôi thay thế ra khỏi
nhà thương, tôi lại thất nghiệp. Hiện đang làm phụ tá tại giải trí
trường Potzloch, đủ trò vui. Cậu có định làm gì chưa...

- Có biết làm gì đâu.

- Không chừng có thể làm chung với tôi. Ở đó, họ thường cần những người
làm đêm. Mai tôi sẽ cố ép lão Potzloch. Cái lợi ở Prater là không bao
giờ có kiểm soát, cũng chẳng ai bận tâm khai báo.

- Vậy là tuyệt diệu. Tôi sẽ ở lại Vienne ít lâu.

Steiner liếc xéo:

- Thật à... Coi bộ vui lắm hả...

- Vui lắm.

Cả hai xuống xe và băng qua khu Parter. Tới trước một căn nhà di động
bằng bánh xe, bên ngoài giải trí trường, Steiner dừng lại. Anh mở cửa và
đốt đèn lên.

- Tới nhà rồi. Bây giờ mình làm trò ảo thuật để có chỗ nằm.

Anh ta lấy mấy tấm nệm cũ và vài mảnh mền rách trải trên sàn nhà.

- Chắc đói rồi phải không...

- Cũng không rõ ra sao.

- Trong tủ, trên giường có bánh mì, bơ và một khúc xúc - xích. Mắt anh nhìn ra cửa sổ. Steiner cười:

- Sợ hả... Bây giờ có an toàn đến đâu cũng vẫn chưa quên sợ nổi. Vào đi, Lilo!

Một thiếu phụ trẻ đẹp, mảnh khảnh bước vào rồi dừng lại ở cửa. Steiner bảo:

- Tôi vừa gặp lại một người bạn nhỏ. Ludwig Kern. Còn trẻ nhưng có nhiều
kinh nghiệm giang hồ. Kern sẽ ở lại đây. Pha cho chúng tôi một ít cà
phê, được chớ, Lilo...

- Được.

Lilo đốt bếp cồn lên để nước và bắt đầu xay cà phê. Nàng làm tất cả
những việc đó gần như không hề gây tiếng động. Steiner nhìn nàng:

- Vậy mà tôi tưởng em đã ngủ rồi. Khó ngủ quá.

Giọng người thiếu phụ trầm và hơi khàn. Khuôn mặt hơi gầy nhưng đều đặn.
Tóc nàng rẽ làm hai, chừa một đường ngôi ở giữa. Thoạt nhìn, Lilo giống
mẫu người phụ nữ Ý nhưng lại nói tiếng Đức pha lẫn giọng Nam Tư.

Kern ngồi trên một cái ghế mây sứt mẻ. Anh cảm thấy mệt rã rời nhưng
đồng thời nghe khoan khoái như kẻ đang nhẹ vào giấc ngủ với sự an toàn.

Steiner nói với Kern:

- Chỉ tiếc là thiếu gối.

- Không sao. Tôi sẽ lấy quần áo cuộn lại kê đầu.

Lilo nói nhưng chẳng nhìn ai:

- Tôi còn một cái gối dư.

Nàng châm nước vào cà phê rồi nhanh nhẹn bước ra, nhẹ nhàng như cái bóng.

Steiner rót cà phê ra hai cái tách sứt quai:

- Mình ăn đi.

Người đàn bà quay trở lại, cũng nhẹ nhàng như cái bóng. Nàng đặt chiếc gối xuống chỗ nằm của Kern và ngồi vào bàn. Steiner hỏi:

- Không uống cà phê sao, Lilo...

Nàng lắc đầu. Nàng lẳng lặng nhìn hai người đàn ông ăn uống. Một lúc sau, Steiner đứng lên:

- Tới giờ ngủ rồi. Chắc mệt lắm hả, cậu bé...

- Mệt nhưng bây giờ đỡ nhiều.

Steiner vuốt tóc Lilo:

- Em nữa, đi ngủ đi.

Người thiếu phụ ngoan ngoãn đứng lên:

- Chúc ngủ ngon.

Kern và Steiner đi nằm. Steiner tắt đèn. Trong bóng tối, Steiner nói như nói với chính mình:

- Phải quen sống thế nầy để khỏi nghĩ tới ngày trở lại.

- Bây giờ, tôi không còn thấy khó chịu nữa. Khá quen rồi.

Steiner đốt thuốc. Hắn hút từng hơi dài. Đốm lửa đầu thuốc rực sáng mỗi lần hắn hít khói vào.

- Hút không... Hút thuốc trong bóng tối cũng thú vị lắm.

- Cho tôi một điếu.

Kern mò gặp bàn tay Steiner. Anh lấy gói thuốc và bao diêm.

- Ở Prague ra sao...

- Tàm tạm. Tôi có quen một người.

- Có phải vì vậy mà tới Vienne không...

- Không hẳn chỉ có thế. Nhưng nàng cũng đang ở Vienne.

Steiner cười trong tối:

- Đừng quên mình là dân du mục, bé con. Dân du mục rất quen với những
cuộc phiêu lưu, nhưng lúc cần phải lên đường, họ không bao giờ được
quyền bỏ sót lại một mảnh của trái tim.

Kern lặng thinh. Steiner nói tiếp:

- Điều đó không có nghĩa là đừng phiêu lưu. Và cũng không có nghĩa là
sống không cần có trái tim. Trên đường xa xứ, cái gì có hơi ấm đều đáng
kể. Nhưng cũng cần nhớ, chúng ta có thể nhận rất nhiều nhưng cho lại
chẳng bao nhiêu…

- Phần tôi thì chắc chẳng có gì để cho.

Tự nhiên Kern cảm thấy chán nản lạ lùng. Mình có gì để cho lại Ruth...
Chỉ có tình yêu… và chỉ có thế thôi. Ít quá vậy sao... Mình hãy còn trẻ
và thất học…

Như đoán được ý nghĩ của Kern, Steiner cười:

- Đừng lo quá, bé con. Khi yêu, tất cả đều tốt đẹp. Cứ nhảy đại xuống
sông nhưng đừng để chết chìm. Mai, tụi mình tới gặp lão Potzloch.

- Cám ơn anh. Đêm nay chắc ngủ ngon.

Kern dụi tắt điếu thuốc. Anh vùi đầu vào chiếc gối lạ. Anh vẫn còn chán
nản nhưng đồng thời cũng cảm thấy có cái gì như là hạnh phúc.
Về Đầu Trang Go down
https://duonghoalac-hoabinh.forumvi.com
Admin
Admin
Admin
Admin

Tổng số bài gửi : 1754
Điểm : 6794
Ngày tham gia : 22/12/2010
Tuổi : 38
Đến từ : Hà Nội
Level: 38 Kinh nghiệm: 1754%
Sinh mệnh: 1754/100
Pháp lực: 38/100

NGƯỜI ĐIỀU HÀNH
Phù hiệu: Bản du ca cuối cùng - Erich Maria Remarque POLLICE

Bản du ca cuối cùng - Erich Maria Remarque Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Bản du ca cuối cùng - Erich Maria Remarque   Bản du ca cuối cùng - Erich Maria Remarque Icon_minitimeThu Apr 14, 2011 7:49 pm

Chương 9

Lão giám đốc Potzloch, người nhỏ thó nhưng linh hoạt, râu
mép lùi xùi, kính kẹp mũi chừng như lúc nào cũng chực vuột ra khỏi cái
sóng mũi to quá cỡ. Ông ta gần như chẳng bao giờ rảnh rỗi, nhứt là những
lúc chẳng có gì để làm.

Vừa thấy Kern, ông ta hỏi mau Steiner:

- Chuyện gì đây... Mau lên.

- Chúng ta cần một người phụ việc. Cần có một người dọn dẹp ban ngày và
ban đêm phụ giúp chương trình thần giao cách cảm. Xin giới thiệu ông,
người nầy là Kern.

- Có biết chút ít gì không...

- Vừa đủ với sự đòi hỏi.

Potzloch nheo mắt:

- Bạn của chú hả... Tiền công ra sao đây...

- Aên uống, chỗ ở và ba chục Đức kim.

- Dữ vậy... Trả như vậy là bằng một nữ minh tinh màn bạc. Bộ chú muốn tôi sạt nghiệp sao, Steiner... Phải tính lại chớ.

Kern sợ lỡ mất cơ hội:

- Thưa, tôi có thể giúp việc không cần tiền.

- Hoan hô, cậu bé! Có biết như vậy mới trở thành triệu phú. Chỉ có những
kẻ khiêm nhượng mới tiến bộ mau. – Ông ta cười khoái chí và vội vàng
chụp cái kính kẹp mũi sắp rơi ra – Nhưng cậu bé vẫn chưa biết được tấm
lòng của nhà nhân ái Potzloch nầy. Cậu sẽ được lãnh mười lăm Đức kim mỗi
tháng. Nên nhớ đây là tiền “cachet” trả cho một tài tử chớ không phải
là tiền công. Kễ từ nay trở đi, cậu là một tài tử. Một “cachet” mười lăm
Đức kim còn có giá trị hơn một ngàn Đức kim tiền công, cậu hiểu chưa...
Aø, cậu có biệt tài gì không...

- Tôi biết đờn dương cầm.

Potzloch gắn chặt kính kẹp mũi vào:

- Cậu có biết đệm nhạc không... Nghĩa là chơi thế nào để phù hợp với ngoại cảnh.

Kern gật đầu.

Potzloch lấy điệu bộ của một Tổng tư lịnh:

- Tốt lắm. Steiner, chú cho cậu ta biết qua các màn Ai Cập nghe! Mình cần nhạc đệm trong cảnh xác ướp.

Ông ta nhảy vài bước là mất dạng. Steiner nhìn Kern, lắc đầu:

- Quan điểm của tôi thế là không sai: Dân Do Thái là dân ngu nhứt mà
cũng đáng tin cậy nhứt trên thế giới. Phải lúc nãy cậu đừng nói bậy là
mình đã moi được của lão ba chục Đức kim.

Kern cười giả lã:

- Có một điều mà anh quên: Sự sợ hãi về các cuộc tàn sát tập thể dân Do
Thái vẫn còn ám ảnh dân Do Thái suốt hai ngàn năm. Trên phương diện đó,
người Do Thái đại diện cho một giống dân bé nhỏ nhưng lì lợm vô cùng.
Phần tôi, tôi chỉ mới có nửa dòng máu Do Thái thôi.

Steiner cười:

- Cũng tạm được. Nhưng kiếm cái gì ăn trước đã. Mình phải ăn mừng lớn. Lilo là một đầu bếp hiếm có.

Cơ sở của Pootzloch tại khu hội chợ gồm có một kỵ mã trường, một gian
hàng bắn bia và một viện gây ảo giác. Ngay buổi sáng, Steiner đưa Kern
tới chỗ làm việc để quét chuồng ngựa và lau chùi yên cương.

Kern cặm cụi làm việc đến nỗi Steiner tới gần cũng không hay.

- Thôi, đi ăn.

- Ủa, lại ăn nữa à...

Steiner gật đầu:

- Phải ăn mới có sức làm. Cậu nên nhớ mình đang sống một cuộc đời tài
tử, có rất nhiều mùi trưởng giả. Xế chiều lại còn thêm một bữa ăn lót
dạ, có cả cà phê và bánh ngọt.

- Đúng là một vùng đất thần tiên! Steiner, tôi cảm thấy sờ sợ vì mấy lúc
sau nầy toàn gặp chuyện may. Hôm qua tôi còn chưa biết sẽ phải ngủ ở
đâu, vậy mà hôm nay đã có việc làm, có chỗ ở lại có người tới mời mình
đi ăn. Khó mà tin là có thật!

- Nhưng phải cố mà tin. Đừng suy nghĩ nhiều, cứ nhìn đời với cặp mắt bình thản. Đó là phương châm của khách giang hồ.

- Cầu Trời cho tình trạng nầy được kéo dài.

- Ít lắm cũng được ba tháng. Cho tới lúc trời lạnh.

Lilo đã đặt sẵn một cái bàn lung lay trên sân cỏ ngay trước ngôi nhà di
động bằng bánh xe. Trên bàn là một nồi súp to lềnh bềnh rau thịt. Nàng
ngồi giữa Kern và Steiner. Trời trong sáng bàng bạc gió thu.

Steiner vươn vai:

- Sống thế nầy là lành mạnh đến tột cùng. Thôi, mình tới gian hàng bắn bia.

Anh ta chỉ các khẩu súng cho Kern và dạy cách nạp đạn.

- Những người bắn súng được chia làm hai hạng: hạng có tham vọng và hạng có bản năng chiếm hữu.

- Cũng giống như ở ngoài đời – Lão Potzloch từ đâu trờ tới, nói chêm vào.

Steiner tiếp tục giải thích với Kern:

- Hạng có tham vọng bắn vào bia hoặc những con số. Đó là những người
không nguy hiểm. Hạng kia thì muốn lấy một vật gì đó – anh chỉ vào các
kệ tủ trên đó có những con gấu bông trắng, những con búp - bê, những cái
gạt tàn thuốc đủ kiểu, nhiều chai rượu chát và những món đồ tương tự –
bắn đủ điểm, họ có quyền lấy một trong những vật đó. nhưng khi đã quá
năm mươi điểm, họ có quyền chọn lấy một vật trên các kệ cao hơn. Mỗi món
đồ bên trên trị giá mười Đức kim nhiều hơn. Bởi vậy, khi thấy họ gần đủ
điểm, cậu nạp cho họ những viên đạn quỷ quái do chính ông Potzloch chế
tạo. Loại đạn nầy bề ngoài cũng giống hệt những viên kia. Đó, chúng nằm
bên cạnh đây, cậu ráng nhớ kỹ. Dĩ nhiên là họ sẽ bắn trật mục tiêu vì ít
thuốc tống hơn. Cậu hiểu chớ...

- Cũng chẳng có gì khó.

Lão Giám đốc nói rõ thêm:

- Nhứt là phải nhớ đừng đổi súng khiến họ nghi ngờ. Vấn đề chánh là phải
để họ được phần thưởng nhưng phải tương đồng với khoản tiền mình thâu
vào, hoặc là phần thưởng đó phải kém hơn. Cậu nhớ cho phần sau… kém giá
hơn.

Steiner nói thẳng:

- Người nào đã bắn tới năm đức kim thì thưởng cho họ một pho tượng nữ thần bằng đồng trị giá một Đức kim.

Giọng nói lão Potzloch bỗng ra chiều thống thiết:

- Còn một điểm quan trọng tối hậu mà cậu nên đặt biệt lưu ý cho tôi. Đó
là lô độc đắc. Không ai có quyền được trúng. Cậu nghe rõ chưa... Đó là
tiếng riêng của gia đình tôi, không thể mất được.

Ông chỉ một cái rổ bằng bạc chạm, bên trong có mười hai bộ dĩa cũng bằng bạc:

- Thà chết còn hơn để họ bắn quá sáu mươi điểm. Cậu hứa với tôi chớ...

Kern gật đầu:

- Dạ, nhớ kỹ lắm. Tôi xin hứa.

Potzloch lau mồ hôi trán và sửa lại cái kính kẹp mũi:

- Mất cái rổ đó là vợ tôi nó giết tôi ngay. Đó là vật gia truyền từ đời
nầy đến đời kia… lâu lắm… Một gia tài, đúng, đó là cả một gia tài, cậu
nghe rõ chưa...

Ông ta phóng đi như mũi tên. Kern nhìn theo với ánh mắt đầy lo ngại. Steinr trấn an:

- Cũng chẳng có gì ghê gớm đâu. Mấy khẩu súng nầy đã có từ thời
Mathusalem lận. Vả lại, khi nào gặp gì rắc rối, cứ gọi Lilo là xong
ngay.

Steiner và Kern đi về phía viện gây ảo giác. Đó là một căn trại rộng lớn
dán đầy bích chương màu mè sặc sỡ. Ở giữa là một sân khấu khá cao với
ba bậc thang từ dưới đi lên. Trước đó là két thu tiền trình bày theo
kiểu một ngôi chùa Trung Hoa. Steiner chỉ vào một tấm bích chương có vẽ
hình một người mắt chiếu một chùm sáng:

- Alvaro, người mắt thần… Alvaro chính là tôi, và cậu sẽ đóng vai phụ tá.

Toàn trại bốc ra mùi ẩm mốc. Các dãy ghế không người được cố ý sắp vô trật tự. Steiner bước lên sân khấu:

- Bây giờ mình tập thử! Một khán giả ở đây giấu một món đồ… thường
thường là những gói thuốc, hộp kẹo, hộp phấn, có khi lại là nhưng cái
kẹp cà vạt hoặc kẹp tóc. Tôi phải tìm cho ra vật đó. Tôi sẽ mời một
người nào đó trong số khán giả lên. Tôi nắm lấy tay người tình nguyện
nầy và bắt đầu đi tìm. Cậu sẽ là khán giả tình nguyện đó. nhờ cậu mà tôi
sẽ tìm ra vật kia. Tay cậu càng siết chặt hơn là tôi càng tới gần nơi
cất giấu. Cậu sẽ dùng ngón tay giữa nhịp nhẹ vào tay tôi để báo hiệu. Để
cho tôi biết vật kia ở trên cao hay dưới thấp, cậu chỉ có việc nhấc tay
lên hay hạ tay xuống.

Lão giám đốc Potzloch lại bất thần xuất hiện:

- Sao... Nhắm được không...

- Chúng tôi mới bắt đầu tập. Mời ông Giám đốc ngồi xuống và thử giấu một vật gì đó. cái kẹp cũng được.

Potzloch sờ vào ve áo:

- Có đây...

- Hay lắm… Ông giấu đi. Kern, lại đây.

Potzloch lẹ làng giấu cái kẹp ở đế giày rồi bảo:

- Bắt đầu đi!

Kern lên sân khấu nắm tay Steiner. Hai người cùng tới chỗ lão Potzloch
ngồi. Steiner bắt đầu tìm theo sự chỉ dẫn ngầm của Kern. Lão Giám đốc
cười hô hố:

- Nhột lắm! Đừng, khoan đã!

Không đầy ba phút Steiner đã tìm ra chiếc kẹp. Hai người lại tiếp tục
tập dượt. Trong những lần sau, Kern có dịp học thêm một số ước liệu
khác.

Potzloch khen:

- Khá lắm. Nhưng buổi chiều nhớ dượt lại cho rành. Còn một điều quan
trọng nầy mà cậu Kern phải lãnh hội cho kỳ được. Đó là cách giả bộ ngập
ngừng, do dự như thật để khán giả không khám phá ra.

Nói xong, ông ta đứng lên đóng vai một khán giả tình nguyện lên nắm tay
người mắt thần. Ông ta vặn vẹo mình trước khi đứng lên, nhìn quanh như
xấu hổ rồi gượng cười làm như xin lỗi. Kế đó, ông ta làm như định ngồi
trở lại và cuối cùng bước đi lên sân khấu với tất cả sự hăm hở của một
kẻ tò mò…

Lên tới sân khấu, ông ta nhìn Kern:

- Đó, cậu làm đúng như tôi là khỏi phải lo sợ gì cả.

Steiner vừa cười vừa bảo:

- Làm được như ông Giám đốc phải tập luôn mấy năm.

Lão Potzloch cười mát dạ:

- Muốn làm ra vẻ thiếu tự tin không phải là chuyện dễ. Phải là một con cáo già như tôi mới đủ tài.

Ông ta lại phóng đi như bay.

Steiner gật gù:

- Đúng là một mẫu người núi lửa! Trên sáu mươi tuổi mà vẫn tươi và khỏe!

Steiner còn ở lại chỉ thêm cho Kern cách điểm chỉ dãy ghế có người giấu
đồ với mấy ngón tay gãi đầu. Kern hiểu rất mau. Steiner bảo:

- Bây giờ tôi đưa cậu đi xem chiếc dương cầm quí báu của chúng ta. Gởi
vào bảo tàng viện cũng vừa. Có lẽ đây là một trong những cây đờn cỗ lỗ
nhứt.

- Chẳng biết tôi có còn nhớ gì không.

- Cũng không sao. Cứ chọn vài đoạn hòa âm thật hay. Trong màn cưa xác
ướp, nhớ chơi liên điệu. Tới màn người đàn bà không đầu thì đánh cho dồn
dập. Chưa chắc đã có ma nào nghe.

- Được. Để tôi dượt lại một lúc xem sao.

Chiếc dương cầm quá cũ dường như chào đón Kern với nụ cười phơi trống
tất cả những chiếc răng vàng vọt. Anh vừa bấm phím vừa nghĩ tới Ruth,
tới Steiner, tới những tuần lễ nghỉ ngơi với những buổi ăn tối, và cuộc
đời quá đẹp trong tầm tay.

Một tuần sau, Ruth tới khu Prater. Nàng tới giữa lúc giờ trình diễn “gây
ảo giác” bắt đầu. Kern đưa Ruth tới ngồi ở hàng ghế đầu rồi trở lại
ngay với cây dương cầm. để ăn mừng ngày tái ngộ, Kern thay đổi các bản
nhạc. Trước tiên, anh chơi bản Dạ khúc hoa đang xứ Anh đào và kế đó là
bản Phù Du Dạ vũ. Tới màn Tarzan Uùc, anh chơi những bản đô làm nổi bật
mọi diễn xuất.

Kern vừa bước ra khỏi phòng, thì Potzloch chực sẵn bên ngoài, chụp lấy anh:

- Tuyệt diệu! Đờn như thế lá quá tuyệt. Bộ uống rượu, hả...

Kern mỉm cười:

- Dạ không. Chắc tại cảm thấy khỏe trong người.

Potzloch chụp lấy cái kính sắp vuột ra khỏi sóng mũi:

- Tôi đoán chắc là cậu muốn thử tôi. Như vậy là phải tính tiền “cachet”.
Và kể từ nay là cậu phải luôn luôn khỏe trong người, nghe chưa...

- Dạ.

- Và hễ tới màn trình diễn của mấy con hải cẩu là phải chơi một cái gì… chẳng hạn như… à, nhạc cổ điển, phải chớ...

- Vâng. Tôi còn nhớ một đoạn trong Hòa tấu khúc số 9.

Kern trở vào ngồi ở một cái ghế trống, dãy sau cùng. Qua kẽ hở của một
chiếc nón lông và một cái đầu sói, anh nhìn thấy đầu của Ruth mờ mờ
trong khói thuốc. Đối với anh, đó là cái đầu đẹp nhứt trần gian.

Steiner bắt đầu diễn trò bất định. Anh ngập ngừng hoàn toàn tự nhiên,
ngay khi đi gần tới sân khấu, anh còn muốn quay trở lại. Thật ra không
phải Kern xuất thần trong vai trò giao phó nhưng anh ngập ngừng là do sự
có mặt của Ruth. Màn “mắt thần” được trình diễn không một sơ suất.

Chờ Kern diễn xong, Potzloch nháy mắt gọi anh ta ra một chỗ vắng:

- Sao... Hôm nay anh có chuyện gì không mà xuất sắc qua vậy... Lại có cả
mồ hôi trên trán. Mồ hôi thì khó mà làm cho có ngay được. Cậu làm gì...
Có phải nín thở không...

- Chắc là tại quá lo.

- Quá lo hả... A, đúng rồi, mối lo thật sự của một tài tử yêu nghề trước
khi lên sân khấu! Từ nay cậu nhờ đờn cho hai màn hải cẩu và Tarzan,
nghe chưa... Tiền cachet thêm năm Đức kim. Đồng ý chớ...

- Dạ, đồng ý. Nhưng xin ông Giám đốc trả trước mười Đức kim.

- Trả trước... Mới đây mà cũng rành vậy rồi à... Được, tôi kể cậu là một tài tử chính cống.

Ông ta trao cho Kern tờ giấy bạc mười Đức kim.

Steiner khoát tay:

- Xong rồi, thôi, cô cậu chuồn đi. Nhưng nhớ trở về trong một tiếng đồng
hồ nữa để lót dạ. Sẽ có món pirogui nóng, món ăn trứ danh của người
Nga, phải không Lilo...

Lilo gật đầu.

Kern và Ruth băng ngang cánh đồng cỏ phía sau gian hàng bắn bia và đi
qua khu vực kỵ mã trường huyên náo. Aùnh đèn và âm nhạc đổ tràn lên
người họ như những lượn sóng màu êm ái.

Kern nắm tay người yêu:

- Ruth, em phải sống một đêm thật vĩ đại mới được. Anh sẵn sàng tốn năm chục Đức kim.

Ruth dừng sững lại:

- Đừng anh!

- Không được. Anh phải xài năm chục Đức kim vì em. Rồi em coi. Anh có một cách xài không phải trả.

Cả hai đi về khu vực “chuyến xe ma”. Đây là cơ sở rộng lớn với những
đường rầy cao vút trên không, và những toa xe nho nhỏ chạy hết tốc lực.
Khách đứng nối đuôi ngay cửa vào chờ mua vé. Kern kéo Ruth, chen lấy lối
đi giữa rừng người. Người bán vé vừa thấy Kern đã reo to:

- Chào George. Đến chơi với tụi nầy hả... Mời vô.

Kern mở cửa một toa xe:

- Lên với anh.

Ruth ngạc nhiên nhìn Kern. Anh cười thật tươi:

- Aûo thuật gia mà, cưng. Không ai bắt mình trả tiền đâu.

Toa xe chạy băng băng, vượt một dốc đứng rồi chui vào một đường hầm tối
om. Một con quái vật bị xiềng khắp người, nhe răng như chực vồ lấy Ruth.
Nàng hét lên và ép mình vào người Kern. Rồi một ngôi mộ mở ra, toa xe
chui tọt vào. Các bộ xương người nhảy múa với những tiếng xương chạm vào
nhau công cốc. Toa xe ra khỏi đường hầm, đánh một vòng quanh rợn người
và tuột phanh xuống một cái hồ. Từ đầu kia, một chiếc xe chạy ngược
chiều, hết tốc độ. Ngay khi Ruth hoảng kinh vì chắc chắn hai xe phải đâm
bổ vào nhau thì toa xe của nàng và Kern bỗng tự nhiên lướt trệch qua.
Ruth chưa kịp hoàn hồn thì toa xe lại phóng vào một hang động đầy khói
mờ, có những bàn tay ươn ướt của ai đó sờ vào mặt họ.

Sau cùng, toa xe của họ cán phải một cụ già rồi nhô ra ánh sáng và đứng lại. ruth dụi mắt và cười:

- Ghê quá mà cũng đẹp quá! Không khí, ánh sáng, đẹp lạ lùng…

Họ sang khu vực “xe hơi đụng nhau”.

Anh chàng gác cửa ở đây vẫy tay với Kern:

- Chào bạn, Peperl. Lấy chiếc xe số bảy. Đụng ngon lành lắm.

Kern nheo mắt với anh ta rồi hỏi Ruth.

- Em thấy anh có giống Thị trường thành Vienne không...

- Em tưởng anh là chủ của khu Parter nầy.

Chiếc xe số bảy của họ đụng mạnh vào nhiều chiếc khác rồi bị cuốn vào
giữa đám hỗn loạn. Kern buông tay lái, Ruth chụp lấy cố điều khiển nhưng
không được. Cuối cùng nàng buông tay ra, cười với Kern – cái cười ngây
thơ của một đứa bé nhờ tới sự tiếp tay của người lớn. Kern không còn
thấy rõ khuôn mặt Ruth mà chỉ còn thấy có đôi môi.

Cả hai còn đi viếng hơn một chục nơi khác, từ chỗ hải cẩu biết là toán
tới gian hàng nhà tướng số Ấn Độ. Không nơi nào bắt họ phải trả tiền.

Kern hãnh diện bảo Ruth:

- Em thấy không, họ gọi anh bằng đủ thứ tên nhưng tất cả đều cùng chỉ có
một thứ cảm tình. Đó là hình thức cao tột của tình người.

- Mình lại chỗ “bánh xe quay” được không anh...

- Phải được chớ. Tư cách của một tài tử dưới quyền lão Potzloch mà.

Người bán vé ở đây lại gọi Kern bằng một tên khác:

- Chào bạn, Schani. Vị hôn thê hả...

Kern gật đầu, mặt đỏ lên, không dám nhìn Ruth.

Người bán vé rút hai tấm bưu thiếp có in hình bánh xe quay trên nền trời thành Vienne.

- Xin gởi cô làm kỷ niệm.

- Cám ơn ông.

Cả hai lên một cái lồng treo. Kern ấp úng:

- Hồi nãy anh không cãi chánh về chuyện vị hôn thê vì sợ sẽ dài dòng.

Ruth cười tự nhiên:

- Nhờ vậy mà mình có thêm hai bưu thiếp. Nhưng biết gởi cho ai đây...

- Anh cũng không còn ai để gởi. Có những người muốn gởi thì lại không biết họ ở đâu.

Theo đà quay của bánh xe đồ sộ, Kern và Ruth từ từ trên cao, dưới chân
họ, toàn cảnh thành Vienne lần lần mở ra như một cánh quạt khổng lồ.
Trước tiên là những dãy ánh sáng của khu Prater với những con đường chói
rực trong đêm như những xâu chuỗi trân châu. Kế đó là khu vực hội chợ
lộng lẫy với những ánh đèn màu trông như những viên hồng và bích ngọc.
Và sau cùng là dãy đồi viền mờ sương khói chạy dài mút mắt.

Chiếc lồng treo lên cao, lên cao mãi theo một đường vòng trôi tuột về
phía trái, dường như họ đang ngồi trên một phi cơ càng lúc càng rời xa
quả đất, và quả đất dường như đã bỏ họ mà đi khiến cả hai không còn thấy
một nơi nào bám víu. Aán tượng ma quái đó đưa họ đi qua hàng trăm đất
nước, hàng ngàn căn nhà, và trước mắt họ, ánh sáng chạy dài tới chân
trời như mời mọc họ trở về trong khi họ biết những thứ đó không có nơi
nào thuộc quyền của họ. Họ đi dạo trên trái đất, nơi nào thuộc quyền của
họ. Họ đi dạo trên trái đất, giữa các tinh cầu và sự mất mát quê hương.
Và công việc duy nhứt mà họ có thể làm được là đốt lên một sầu xa xứ…

Cửa sổ của căn nhà di động bằng bánh xe mở toang ra. Lilo đã trải lên
giường một cái mền nhiều màu và trên chỗ nằm của Kern một tấm màn nỉ cũ
của gian hàng bắn bia. Bên cửa sổ lủng lẳng hai chiếc đèn lồng.

Steiner vui vẻ hỏi:

- Đêm thần tiên của dân du mục, phải không... Cô cậu có vào trại tập trung nhỏ không...

- Anh muốn nói... …

- Chuyến xe ma.

- Có.

Steiner cười:

- Nhưng phòng giam, xiềng xích, máu và nước mắt… Không ngờ chuyến xe ma lại trở thành hiện đại, phải không cô bé Ruth...

Anh đứng lên:

- Mình nên uống một chút Vodka. Cô Ruth uống chớ...

- Dạ, một ly lớn.

- Còn Kern...

- Hai ly.

- Hay lắm, bọn trẻ tiến bộ quá mau.

Kern cãi chánh:

- Không phải vậy đâu. Tôi muốn để đánh dấu một ngày vui.

Lilo vừa bước vào với mấy dĩa thức ăn cũng phụ hoạ:

- Cho tôi một ly luôn.

Steiner rót rượu xong, nâng ly mình lên và hô to:

- Vạn tuế sự băng hoại sầu thảm, vạn tuế niềm yêu sống!

Lilo đặt mâm lên bàn và đi lấy hũ dưa chuột với bánh mì Nga đem lại.
Nàng cầm ly lên và ngắm rồi lẳng lặng uống cạn. Aùnh đèn lồng phản chiếu
vào rượu khiến Lilo có cảm tưởng như đang uống với một cái ly làm bằng
hồng ngọc.

Nàng hỏi Stiner:

- Cho tôi một ly nữa chớ...

- Sẵn sàng, thưa người con của đồng cỏ hoang. Còn Ruth nữa thôi...

- Dạ, một ly nữa.

Kern đưa tay ra:

- Cho tôi ly nữa. Để ăn mừng lên hương.

Uống xong họ bắt đầu ăn. Dteiner thôi trước, lên giường nằm hút thuốc.
Kern và Ruth ngồi trên chỗ ngủ của Kern. Lilo như cái bóng nhẹ nhàng tới
lui dọn dẹp. Steiner bỗng đề nghị:

- Hát cho tụi này một bài gì đi, Lilo!

Không trả lời, Lilo bước tới lấy cây Tây Ban Cầm treo ở vách. Lúc nói,
giọng Lilo hơi khàn khàn nhưng khi hát, giọng nang đột nhiên trầm ấm và
trong rõ. Nàng ngồi hơi khuất ánh đèn. Khuôn mặt bình thường lúc nào
cũng mang mặt nạ bây giờ thoáng hiện nhịều sinh khí, mắt chiếu ngời ánh
man dại trong niềm đau mất quê hương. Nàng hát những bản dân ca Nga và
những điệu ru du mục. Một lúc khá lâu, Lilo dừng lại, nhìn Steiner.

- Hát nữa đi.

Lilo cúi đầu xuống, đánh nhẹ mấy khúc hoà âm. Nàng bắt đầu ngâm nga
những điệu du dương trầm buồn, thỉng thoảng trong lời ca có nhiều âm
thanh lạ như tiếng **** đêm lạc loài trên những đồng cỏ xa xăm. Và rồi
dưới ánh đèn hồng mờ ảo, căn nhà có bánh xe lăn bỗng trở thành một cái
lều được hối hả dựng ban đêm và xếp lại sáng hôm sau để tiếp tục cuộc
hành trình vô định.

Ruth ngồi dựa vào Kern. Vai nàng chạm vào hai đầu gối co lên của Kern.
Nàng ngửa đầu ra sau tựa lên tay Kern. Kern như máu mình được hâm sôi.
Một cái gì đó toan xâm chiếm anh đồng thời cũng có một cái gì đó chực
thoát khỏi anh.

Cái gì đó có thể là tiếng hát liêu trai của Lilo, cũng có thể là những
gợn gió đêm… tất cả biến thành những đợt chói chang nâng anh dậy và cuốn
trôi… Anh đưa hai bàn tay ra vừa đúng lúc đỡ lấy một chiếc gáy thon
mềm.

Bên ngoài tất cả đều lặng trang lúc Ruth và Kern ra đi. Các gian hàng
được che kín bằng lá phủ, tiếng ồn ào huyên náo đã chìm mất trong sự
tịch mịch của khu rừng.

Kern hỏi Ruth:

- Em có định về bây giờ chưa...

- Em không biết. Nhưng chắc là không.

- Vậy thì ở lại đây, chúng mình sẽ đi dạo. Anh muốn là ngày mai đừng bao giờ tới.

- Phải rồi, ngày mai luôn luôn mang theo sự sợ hãi và vô định. Ở đây thật là trọn lành.

Họ đi vẩn vơ giữa đêm. Cây cối chung quanh đứng im lìm. Tất cả dường như
đang được bao bọc bởi một lớp gòn mềm mại vô hình. Không có cả tiếng
xào xạc của lá cây.

- Dường như chỉ có chúng mình là những kẻ duy nhất còn chưa ngủ.

- Em không biết. Nhưng hình như Cảnh sát luôn luôn ngủ sau cùng.

- Ở đây không có Cảnh sát. Không có ở trong rừng. Chúng mình có nghe thấy tiếng bước chân nào khác đâu.

- Mình không nghe gì cả.

- Có chớ, anh đang nghe em nói. Và cả anh cũng đang nói. Anh không biết phải nghĩ thế nào nếu chẳng có em.

Họ tiếp tục đi. Đêm yên tịnh bao la đến nỗi dường như sự im lặng cũng
đang nín thở, thì thầm trong tình trạng chờ đợi một cái gì đó ghê gớm và
xa lạ sắp xảy ra. Kern bảo Ruth:

- Đưa bàn tay cho anh. Anh sợ là thình lình em biến mất.

Ruth tựa người vào Kern. Anh ngửi thấy mùi tóc của nàng:

- Ruth, điều mà chúng ta đang ghi nhận là cảm giác mình thuộc về nhau
giữa cuộc chạy trốn và giữa khoảng trống này. Mà cũng không phải vậy, có
những cái gì mà anh không thể đặt tên.

Đầu Ruth ngã vào vai Kern. Họ đứng im lặng như thế một lúc lâu:

- Ludwig, lắm lúc em không muốn đi đâu cả. Em muốn ngã quỵ xuống đây rồi tan biến…

- Em có mệt không...

- Không đâu. Em không mệt. Em sẵn sàng đi mãi như thế này. Thật là bềnh bồng chẳng va chạm vào đâu cả.

Gió bắt đầu nổi lên. Tàng lá bắt đầu khua động. Một giọt nước âm ấm rơi trúng bàn tay anh, giọt thứ hai lăn dài trên má:

- Trời sắp mưa rồi, Ruth.

- Trời sắp mưa.

Những giọt mưa đã rơi đều và nặng.

- Mặc áo anh vào. Anh không sợ mưa, quen rồi.

Anh cởi áo ngoài choàng qua vai Ruth. Nàng cảm thấy như được thấm tràn hơi ấm, được một nơi trú ẩn an toàn.

Gió ngừng thổi. Khu rừng như đột nhiên nín thở. Từ chân trời một ánh
chớp lóe sáng, rồi tiếp theo là một tràng sấm ầm ỹ. Mưa đổ ào xuống
dường như tia chớp vừa rồi đã xé rách da trời.

- Chạy mau, Ruth.

Họ chạy vào kỵ mã trường. Kern dở một tấm lá phủ lên. Cả hai chui vào
một căn trại. Họ cùng có cảm tưởng như đang trốn bên trong một cái trống
mà những giọt mưa đang đánh liên hồi.

Kern nắm tay Ruth, mò mẫm bước.

Bóng dáng mờ ảo của những con ngựa gỗ hiện ra như ma quỉ. Kern lôi Ruth
về phía chiếc du thuyền. Cả hai lấy những gối nỉ trong các cỗ xe gần đó
dồn cả vào thuyền. Kern giựt phăng một tấm thảm vắt ngang lưng con voi
giả, đưa cho Ruth:

- Đây, cái mền viền vàng của em.

Bên ngoài, sấm càng lúc càng nổ to. Những tia chớp lâu lâu lại lóe sáng
bên trong gian lều ấm cúng. Kern nhìn thấy khuôn mặt và đôi mắt đen của
Ruth. Tay anh chạm vào bộ ngực mềm khi anh sửa lại chiếc mền, và một lần
nữa, cái cảm giác của đêm đầu tiên đi lộn phòng tại Prague chợt sống
lại.

Một trận bão nhỏ đang diễn ra ở bên ngoài. Nước mưa từ trên mái lều đổ
xuống ào ào, mặt đất lay chuyển theo từng hồi sấm. Và bỗng nhiên căn lều
to lớn như bị cuốn trôi và từ từ quay cuồng đảo lộn. Rồi dường như có
tiếng nhạc thánh thót từ đâu đó, những âm điệu dồn dập và ngắt quãng…
rồi tất cả đều chìm lắng, chỉ còn có tei61ng mưa rơi – một điệu ru muôn
đời.
Về Đầu Trang Go down
https://duonghoalac-hoabinh.forumvi.com
Admin
Admin
Admin
Admin

Tổng số bài gửi : 1754
Điểm : 6794
Ngày tham gia : 22/12/2010
Tuổi : 38
Đến từ : Hà Nội
Level: 38 Kinh nghiệm: 1754%
Sinh mệnh: 1754/100
Pháp lực: 38/100

NGƯỜI ĐIỀU HÀNH
Phù hiệu: Bản du ca cuối cùng - Erich Maria Remarque POLLICE

Bản du ca cuối cùng - Erich Maria Remarque Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Bản du ca cuối cùng - Erich Maria Remarque   Bản du ca cuối cùng - Erich Maria Remarque Icon_minitimeThu Apr 14, 2011 7:49 pm

Chương 10

Khu đại học phơi mình dưới nắng trưa. Các sinh viên ra về
trước nhứt đang xuống những bậc thang ở cửa. Kern nhón chân lên để cố
tìm chiếc mũ dạ màu nâu của Ruth. Nàng cũng thường ra về trong số những
người đầu tiên. Anh không thấy Ruth đâu cả. Thình lình, anh không còn
thấy các sinh viên vừa ra. Bọn họ đã chạy trở vào. Chắc phải có chuyện
gì xảy ra.

Đột nhiên, dường như bị bắn tung, một toán sinh viên bị tống vọt ra
ngoài. Kern nghe có tiếng kêu la. Thế là đã có ẩu đả. “Đóng đinh bọn Do
Thái! Đập bể mặt tụi nó đi! Tống cổ chúng nó về Palestine”.

Kern rảo bước và đứng lại bên cánh phải ngôi trường. Anh cố tránh bị lôi
kéo vào nhưng đồng thời cũng muốn ở gần đó để có thể giúp Ruth thoát
ra.

Một toán khoảng ba mươi sinh viên Do Thái cố mở đường để chạy. Họ bấu
chặt vào nhau, định xuống các nấc thang. Chung quanh họ hàng trăm sinh
viên đấm đá.

- Đập tụi nó! Phân tán tụi nó ra! Nắm từng đứa một!

Một sinh viên cao lớn hô to. Anh ta đang cầm đầu một toán hò reo tở mở,
đánh phá một góc. Anh ta ném từng sinh viên Do Thái ra ngoài cho đồng
bạn, kẻ dùng tay người dùng gậy hoặc gáy sách tha hồ nện.

Kern lo quá nhưng vẫn chưa thấy Ruth. Anh đoán có lẽ Ruth vẫn còn ở bên
trong. Trên các bậc thang ngay cửa vào bây giờ chỉ còn có hai giáo sư.
Một người để râu càm nhọn hai chia theo kiểu Francois Joseph, mặt hồng
hào, vừa xoa tay vừa mỉm cười. Người kia, mặt xương xẩu và khắc nghiệt,
lạnh lùng đứng nhìn cuộc hỗn loạn.

Một vài nhân viên Cảnh sát từ bên kia công trường hối hả chạy sang.
Người tới trước đứng cách chỗ Kern chẳng bao xa. Ông ta ra lịnh cho hai
đồng đội chạy sau:

- Đứng cả lại! Đừng dây dưa vào!

Một Cảnh sát viên hỏi:

- Chắc tụi Do Thái, hả...

Viên chức Cảnh sát tới trước, vừa gật đầu thì nhìn thấy Kern. Ông ta
quắc mắt. Kern làm như chẳng nghe thấy gì cả. Anh đốt thuốc hút thuốc
rồi bước tránh ra vài thước.

Một sinh viên Do Thái nhỏ thó vụt thoát ra. Hắn dừng lại một lúc dường
như để hoàn hồn. Chợt thấy những người Cảnh sát, hắn chạy nhào tới kêu
to:

- Mau đi, mau cứu họ! Họ bị giết hết bây giờ!

Hai người Cảnh sát nhìn họ như ngắm một vật lạ. Gã sinh viên bé nhỏ sững
sờ một vài giây rồi bỗng chạy ngược thật mau về nơi đang ẩu đả. Nhưng
hắn vừa chạy được mươi bước đã bị hai sinh viên khác xông tới chận đầu:

- Đồ Do Thái bẩn thỉu. Nó đi kêu lính. Được rồi, để tụi tao cho mầy kêu.

Một cái tát tai, người sinh viên nhỏ thó ngã té trong khi anh chàng sinh
viên kia tống thêm một đạp vào bụng. Cả hai nắm lấy hắn mỗi người một
chân và kéo xểnh đi trên thềm đường. Khuôn mặt trắng nhợt và đôi mắt mở
trừng trừng của hắn nhìn thẳng về phía các người Cảnh sát. Cái miệng há
hốc vì kinh hoàng mới đó là một lỗ đen ngòm. Bây giờ đã có một dòng máu
nhểu ra. Hắn không kêu một tiếng.

Kern bỗng thấy miệng mình khô đắng. Anh muốn nhảy xổ lại vồ lấy hai gã
tàn ác kia. Nhưng trước sự lưu ý chằm chặp của mấy người Cảnh sát còn
đứng đó, Kern đành nghiến răng cho khỏi run bật lên và đi tránh ra xa.

Hai gã sinh viên kéo lôi nạn nhân đi qua chỗ Kern. Chúng đang cười cợt,
không một nét hung bạo nào được nhận ra trên mặt chúng. Người ta chỉ
thấy ở đó có cái gì hài lòng, chánh đáng và vô tội, dường như chúng đang
tham dự một cuộc trình diễn thể thao chớ không phải là làm đổ máu một
đồng loại.

Bất ngờ, cứu tinh hiện ra. Một sinh viên cao lớn, tóc hoe vàng, từ nãy
giờ vẫn đứng yên bỗng nhíu mày khi thấy gã bé nhỏ bị kéo lê qua trước
mắt. Anh ta chậm chạp xăn tay áo lên rồi từ từ bước tới nện cho hai gã
sinh viên kai mỗi người một quả đấm như trời giáng.

Và cũng chậm chạp, người sinh viên tóc hoe vàng đỡ gã bé nhỏ đứng lên và bảo:

- Thôi, dông mau đi!

Rồi hắn lại từ từ tiến về phía đám đông. Hắn nghiêng đầu, ngắm gã sinh
viên cầm đầu và tung thẳng một quả đấm vào mũi, tiếp theo là một cú móc
ngược vào càm khiến anh chàng sụm xuống tại chỗ.

Ngay lúc đó, Kern thấy Ruth. Nàng đã làm rơi mất cái mũ và đang đứng ở bìa đám hỗn loạn.

Anh chạy tới:

- Mau Ruth! Chạy mau!

Ruth vẫn chưa nhận ra người yêu, mặt tái xanh, lắp bắp:

- Cảnh sát. Sao không can thiệp...

- Họ không can thiệp đâu. Mình phải rời khỏi chỗ nầy ngay.

Mãi tới lúc đó, Ruth mới nhận diện được Kern. Mặt nàng biến đổi đột ngột, như s8áp khóc.

- Ludwig, mình chạy đi.

Kern nắm tay Ruth và kéo chạy. Phía sau họ có những tiếng la thất thanh.
Nhón sinh viên Do Thái đã bị chia cắt. Một toán đổ chạy ra công trường.
Kern và Ruth bị kẹt vào giữa.

Một sinh viên nắm chặt cánh tay Ruth, hét to:

- Rébecca đây, tụi bây ơi! A, Sarah!

Tự nhiên, Kern bật tung như cái lò xo bị bóp ép. Anh không khỏi ngạc
nhiên khi thấy gã vừa nắm tay Ruth quỵ xuống. Anh cũng không rõ là mình
đã đánh thế nào.

- Cú trực tiếp đẹp lắm.

Người vừa khen là anh chàng tóc hoe vàng. Bây giờ anh ta đã chộp được
hai sinh viên khác và dập đầu chúng lại. Vừa buông tay cho hai ngã lia
ngã bất tỉnh, anh ta vừa nói với Kern:

- Làm như vậy tiện hơn.

Và anh ta lại chộp được hai sinh viên khác.

Kern bị trúng một gậy vào tai. Máu dồn lên mặt, anh phóng mình tới, đánh
đập túi bụi, bất kể ai. Anh nghe tay mình chạm vào một cặp kính và một
người lộn nhào. Anh lại xông tới nhưng thình lình đầu anh như nứt ra, và
bức màn đỏ trước mắt từ từ biến mất thành đen.

Kern tỉnh dậy trong một phòng giam. Cổ áo anh rách nát, mặt anh chỗ bầm,
chỗ rướm máu và đầu nhức như búa bổ, Kern đứng lên. Có tiếng người bên
cạnh:

- Chào bạn.

Lại chính gã thanh niên tóc hoe.

- Xui quá, mình đang ở đâu vậy...

- Bị nhốt rồi. Chừng một hay hai ngày là tự do.

- Tôi thì còn lâu…

Kern vừa đáp vừa nhìn quanh. Tất cả là tám. Toàn là người Do Thái, trừ anh chàng tóc hoe. Không có Ruth.

Gã sinh viên cười:

- Bạn nhìn chung quanh để làm gì... Bộ trưởng họ bắt lầm hả... Sai rồi
cưng. Chỉ có nạn nhân mới hân hạnh bị coi là tội phạm. Tâm lý siêu hiện
đại mà!

- Anh có biết người con gái đi với tôi, ra sao không...

- Cô gái... À… không có gì đâu. Đánh nhau loạn xạ ngầu nhưng nguyên tắc là phải chừa con gái ra.

- Thật không...

- Cũng gần như vậy. Cảnh sát can thiệp ngay sau đó.

Kern nghĩ, thông hành của Ruth còn hiệu lực, thế chẳng rắc rối bao nhiêu…

- Còn ai bị bắt nữa không...

Anh chàng tóc hoe lắc đầu:

- Chắc hết rồi. Tôi là người cuối cùng. Họ còn do dự một lúc mới bắt tôi.

Kern thở ra nhẹ nhõm. Như vậy là Ruth không sao.

Gã tóc hoe nhìn Kern với vẻ châm chọc:

- Bạn còn ấm ức phải không... Người nào vô tội cũng thế. Chỉ có tôi là hài lòng và vui vẻ chấp nhận vì tôi tự ý tham gia.

- Anh điệu lắm.

- Điệu à... Bạn nên biết tôi là người kỳ thị không chê nổi. Nhưng không
thể nào đứng yên trước một cuộc thảm sát như vậy được. Quả đấm trực tiếp
của bạn nhanh và mạnh lắm. Có chơi quyền Anh không...

- Không.

- Phải học mới được. Nhưng bạn còn nóng nảy quá. Nếu tôi là giáo chủ dân
Do Thái, tôi sẽ ra lịnh cho các bạn học đánh đấm vài giờ. Có biết võ
mới thấy mấy người anh em chịu nể mình.

Kern sờ lên đầu:

- Nhưng ngay bây giờ thì không còn lòng dạ nào để học.

- Đó là một cú dùi cui. Cảnh sát yêu quý của chúng ta. Luôn luôn đứng về
phe thắng. Tới tối là bớt đau, mình sẽ bắt đầu tập – Hắn nhìn quanh rồi
duỗi dài hai chân ra – Mình tới đây được hai tiếng đồng hồ rồi. Nóng
chảy ra mỡ. Phải có một bộ bài cũng đỡ.

Hắn vừa nói vừa nhìn các sinh viên Do Thái với nét mặt khinh khỉnh. Kern thọc tay vào túi:

- Tôi có một bộ đây.

Đó là bộ bài của Steiner cho và lúc nào Kern cũng mang theo trong mình như bùa hộ mạng.

Gã tóc hoe nhìn Kern, mắt sáng lên:

- Bạn được lắm. Nhưng chắc không biết chơi bài Bridge phải không... Dân Do Thái không hề biết chơi Bridge.

- Tôi chỉ mới Do Thái có một nửa thôi và biết chơi nhiều thứ.

- Vậy là cừ lắm. Bạn hơn tôi. Bây giờ bạn chỉ cho tôi cách đánh bài Thụy Sĩ, tới tối tôi dạy bạn đánh quyền Anh.

Hai người chơi bài cho tới tối. Trong khi đó, các sinh viên Do Thái giết thì giờ bằng những câu chuyện chánh trị và công lý.

Kern ăn được của gã tóc vàng bảy Đức kim về món phé. Anh cố tránh nghĩ
tới Ruth. Gã tóc vàng gom bài lại rồi trả Kern số tiền vừa thiếu.

- Bây giờ tới phần thứ hai. Cố gắng trở thành một Dempsey thứ nhì.

Kern đứng dậy. Anh vẫn còn thấy mệt:

- Đầu tôi mà chịu một cú nữa là bể luôn.

- Đừng lo, đầu anh còn khá tốt để lấy mất của tôi bảy Đức kim. Nào, tiến
lên! Đuổi con thỏ đi! Gởi cái phần nửa Do Thái còn lại đi chỗ khác.

- Được rồi. Tôi đã cố làm như thế gần một năm nay.

- Vậy là tốt. Bắt đầu tập chân. Tinh hoa của quyền Anh là sự nhanh nhẹn
và dẻo dai của đôi chân. Phải tập nhún nhảy. Nhờ nhún nhảy mà đấm bể mặt
kẻ thù. Aùp dụng triết lý của Nietzche.

Anh ta làm trước cho Kern xem và bảo làm theo.

Các sinh viên Do Thái ngưng bàn cãi. Một gã đeo kính đứng lên:

- Anh có vui lòng dạy tôi không...

- Sẵn sàng. Lột kính ra và vào đây. Hoạt động lên, thây ma sình!

Gã tóc vàng vừa nhảy vừa hô:

- Hai bước bên trái, hai bước bên phải. Bây giờ tất cả nhào vô học bài
sấm sét. Không phải chỉ đánh bằng cánh tay mà đánh với sức mạnh của toàn
thân.

Hắn lột áo ngoài ra. Các sinh viên bắt chước theo. Hắn bắt đầu chỉ đấm và né tránh, nghiêng người qua lại, chồm tới, ngửa lui.

Lúc tất cả đều đẫm mồ hôi, hắn ra hiệu dừng lại:

- Tốt lắm, các bồ đã hiểu rồi. Tám ngày còn bị nhốt hãy cố tập để chống
kỳ thị chủng tộc. Hít hơi vào thật sâu, thở ra chầm chậm. Và bây giờ các
bạn coi tôi biểu diễn một quả đấm trực tiếp, đòn lợi hại căn bản của
quyền Anh.

Giữa lúc nhóm trẻ hăng say tập dượt, cửa phòng giam vụt mở ra. Các môn
đệ của hắn lui vào một góc. Hắn trừng mắt với viên Giám thị:

- Đồ mặt dày! Quân ngu ngốc!

Rồi hắn quay lại phân trần với hai người lính:

- Những gì mà các ông vừa thấy là một bài học nhân bản hiện đại, hiểu chưa...

- Hiểu cái gì...

Gã tóc vàng ra điều thương hại:

- Khổ quá! “Đây là luyện tập thể xác, làm dịu dàng cơ thể”. Hiểu rồi, phải không... Aø, còn cái nầy là bữa ăn tối đây sao...

Viên Giám thị gật đầu:

- Vậy chớ còn gì...

Gã tóc vàng kê mũi vào ga - men rồi nhăn mặt:

- Đem mấy thứ nầy đi. Các người dám dọn bữa ăn tối như vậy cho tôi,
hả... Đem nước rữa dĩa cho con trai ông Chủ tịch Thượng viện ăn à...
Muốn phơi áo, phải không...

Hắn nhìn hai người lính gác:

- Tôi sẽ đệ đơn thưa vụ nầy. Tôi muốn gặp ngay giới chức cao cấp ở đây.
Đưa tôi đi ngay. Cha tôi sẽ hỏi ông Tổng trưởng Nội vụ cho ra lẽ.

Cả viên Giám thị cùng hai người lính gác đều ngơ ngác. Họ không biết phải đối phó ra sao. Người lớn tuổi, dè dặt giải thích:

- Cậu cũng biết đồ ăn trong nhà tù nào cũng vậy thôi.

- Bộ tôi đang ở tù sao... Tôi chỉ mới bị câu lưu thôi. Anh không phân biệt nổi à...

- Dạ biết… Nhưng cậu có thể ăn theo sở thích với điều kiện xuất tiền túi. Nếu cậu đồng ý, chúng tôi sẽ nhờ người đi mua.

Thái độ gã tóc vàng dịu lại:

- Dữ không! Lâu quá mới nghe được một câu chí lý!

- Cậu có mua bia không...

Gã tóc vàng nhìn ông ta:

- Ông coi bộ tốt. Tên ông là gì...

- Rudoft Egger.

- Được lắm. Tôi sẽ nói lại với cha tôi. Nên tiếp tục như thế.

Hắn móc tiền trao cho viên Giám thị:

- Mua thật nhiều thịt bê với khoai tây chiên. Một chai Quetsch …

Rudolf Egger ấp úng:

- Rượu mạnh …

Gã tóc vàng cắt ngang:

- Vẫn được phép mang vào. Hai chai bia, một chai cho mấy ông, còn một chai của tụi nầy.

- Cám ơn cậu.

- Nếu bia không được lạnh thì coi chừng, tôi sẽ của ông một bàn chân. Nhưng nếu tốt thì cứ giữ hết tiền thối lại.

Egger cười nham nhở:

- Xin tuân lệnh, Công tước!

Bữa ăn riêng được mang tới. Gã tóc vàng mời Kern. Anh không muốn nhận
lờivì nhận thấy các sinh viên Do Thái kia vẫn bằng lòng với các ga - men
súp lểnh loãng.

Gã tóc vàng giục:

- Thời đại mới phải biết phớt tỉnh. Đây là bữa ăn của bọn bàn cờ tụi mình.

Kern đành nhận lời. Một lúc sau anh hỏi:

- Cha anh có biết anh bị bắt không...

Gã tóc vàng cười to:

- Bạn tin à... Cha tôi chỉ có một nhà máy dệt ở Linz thôi.

Kern ngạc nhiên. Gã tóc vàng vẫn bình thản:

- Dường như bạn không hiểu ra rằng chúng ta đang sống trong một thời đại
dối gạt lẫn nhau. Nền dân chủ được thay thế bởi chánh sách mị dân. Hậu
quả tất nhiên. Nào, mình uống.

Hắn rót một ly rượu mờianh chành sinh viên đeo kính. Anh này từ chối:

- Cám ơn, tôi không biết uống rượu.

- Tôi cũng đoán như thế.

Gã tóc vàng uống cạn ly rồi nhìn lên trần nhà:

- Đó cũng là một trong những lý do khiến các bồ bị ngược đãi suốt đời. Kern, hai đứa mình uống hết chai chớ...

- Cũng được.

Cả hai uống hết chai và nằm dài ra. Kern nghĩ là có thể sẽ ngủ ngon
nhưng anh cứ thức giấc để tự hỏi “Họ có làm hại gì tới Ruth không... Bao
lâu mình được thả... ”

Kern bị xử hai tháng tù về tội gây thương tích, phá rối trật tự công
cộng, chống lại nhân viên công lực và lưu trú bất hợp pháp. Anh phải gởi
đồ riêng vào kho và mặc quần áo tù. Anh chợt nhận thấy bộ đồ tù có điều
thích hợp: Anh tiết kiệm được quần áo của riêng mình.

Bạn tù của Kern gồm có một tên trộm, một gã lưu manh cỡ nhỏ và một giáo
sư người Nga ở Kazan bị bắt về tội vô gia cư. Cả bốn người cùng làm việc
tại xưởng may của khám đường.

Đêm đầu tiên là đêm khổ sở. Kern vẫn nhớ lời khuyên của Steiner nhưnh anh vẫn thấy buồn, không tài nào ngủ được.

Thình lình, ông giáo sư Nga hỏi:

- Biết tiếng Pháp không...

Kern giựt mình:

- Không.

- Muốn học không...

- Muốn. Học ngay bây giờ được không...

Người tù giáo sư lồm cồm ngồi dậy.

- Phải làm một cái gì để quên, chớ không thì điên luôn.

Kern nói thêm:

- Rakhỏi đây, chắc tôi sẽ tìm đường sang Pháp.

Hai người ngồi ở giường ngủ từng dưới. Bên trên họ, gã lưu manh đang
dùng viết chì vẽ mấy hình tục tĩu lên tường. Người ông giáo sư quá ốm
nên bộ đồ trông rộng thùng thình. Râu ông lù xù và mặt ngây ngô như con
trẻ với đôi mắt xanh xanh.

Với một nụ cười hiền dịu, ông từ tốn nói với Kern:

- Chúng ta bắt dầu với từ ngữ đẹp nhứt nhân loạinhưng cũng dư thừa nhứt: Tự do.

Trong thời kỳ nầy, Kern học hỏi thêm nhiều thứ. Trong vòng ba ngày anh
đã học được cách nói chuyện ngoài sân với các bạn tù khác mà không cần
phải máy môi. Ở xưởng, anh luôn luôn ôn lại các bài học Pháp ngữ. Buổi
tối, sau khi thụ huấn ông giáo sư Nga, Kern được gã trộm dạy cách mở
khóa bằng một sợi dây thép và cách làm cho chó đừng sủa. Hắn cũng dạy
cho Kern biết loại trái cây gì sẽ chín vào mùa nào và cách lẻn vào một
kho rơm để ngủ mà không ai thấy. Tên lưu manh cỡ nhỏ mang lén vào được
các tạp chí “Thời trang”. Thế là ngoài giờ đọc Thánh kinh ra, họ học hỏi
cách ăn mặc xứng hợp với các buổi lễ và cách tổ chức những buổi tiếp
tân.

Buổi sáng ngày thứ năm trong khi Kern ra dạo ngoài sân thì bị một viên
Giám thị đụng mạnh vào người đến nỗi phải lảo đảo dựa vào tường.

Ông ta mắng lớn:

- Bộ đui hả...

Kern giả bộ như đứng không nổi đễ ngã xuống và thừa dịp phóng chân vào
xương ống quyển của người Giám thị mà không bị cho là cố ý. Nhưng anh
chưa kịp thực hiện ý định thì người Giám thị đã chụp áo anh và nói khẽ
rất mau:

- Xin ra một giờ. Bảo là đau bụng – Và ông ta đổi giọng, hét to – Mau lên! Ai có thì giờ đâu mà đợi...

Kern tiếp tục đi vơ vẩn và tự hỏi, chẳng biết người Giám thị ấy có định
ám hại mình không... Anh hỏi ý kiến tên trộm với kỹ thuật nói không máy
môi.

- Mình có quyền xin ra. Đó là quyền ghi trong hiến pháp. Nhưng phải coi chừng.

- Được, để xem hắn định làm gì. Dầu sao cũng là dịp để thay đổi không khí.

Kern giả bộ đau bụng và người Giám thị đem anh ra. Tới một chỗ vắng, ông ta hỏi:

- Hút thuốc không...

- Luật cấm tù hút thuốc trong giờ làm việc.

Kern cười:

- A, ông định gài tôi hả... Không được đâu.

- Câm miệng. Biết Steiner không...

Kern nhìn sững người Giám thị:

- Không.

Anh sợ người ta gài bẫy để bắt Steiner.

- Không biết Steiner, hả...

- Không.

- Nghe đây. Steiner bảo cho chú mầy hay là Ruth vẫn bình yên. Không cần
phải lo ngại. Khi ra tù, chú mầy phải làm cách nào để bị đuổi trở lại
Tiệp Khắc rồi quay về đây. Nghe rõ chưa...

Kern bất giác run lên. Người Giám thị hỏi:

- Bây giờ chịu hút thuốc chưa...

Kern gật đầu. Người Giám thị rút một bao Memphis và một hộp diêm đưa cho Kern:

- Lấy đi. Của Steiner gửi cho chú mầy. Nếu bị bắt thì nhớ không phải là
do tôi đưa. Vào trong kia hút một điếu đi, thở khói ra cái lỗ. Tôi ở
ngoài nầy canh chừng.

Kern đi vào, lấy một điếu thuốc bẻ làm đôi và châm lửa. Anh hút từng hơi
dài. Ruth vẫn bình yên có Steiner giúp đỡ. Kern nhìn bức tường loang lổ
với những bức hình tục tằn và coi đó là căn phòng đẹp nhứt trên thế
giới.

Thấy Kern trở ra, người Giám thị hỏi:

- Tại sao chú mầy chối là không biết Steiner...

Kern nói lãng:

- Ông hút thuốc...

Người Giám thị lắc đầu. Kern hỏi:

- Ông gặp Steiner trong trường hợp nào...

- Hắn cứu tôi ra khỏi một vụ rắc rối to. Thôi, trở lại.

Cả hai tới xưởng. Tên trộm và ông giáo sư nhìn Kern. Anh khẽ gật đầu và ngồi xuống. Ông giáo hỏi không thành tiếng:

- Không sao hả...

Kern lại gật đầu. Ông giáo nói như hơi gió:

- Mình tiếp tục với động từ “Đi”. Đây là một động từ bất quy tắc. Nào, je vais, tu vas…

- Khoan, mình lựa một động từ khác. Tiếng Pháp gọi lieben là gì...

- Lieben... Là Yêu thương. Nhưng đây là động từ có quy tắc.

- Chính tôi đang cần như vậy.

Nhà giáo được trả tự do bốn tuần sau, tên trộm sáu tuần và ít hôm sau
tới phiên gã du thủ du thực. Anh chàng nầy, luôn mười hôm trước khi được
thả, cố gạ Kern vào cuộc “đồng tình luyến ái”. Hôm cuối cùng, Kern hạ
gã đo ván bằng một quả đấm trực tiếp học được của anh chàng sinh viên
tóc vàng.

Một đêm, Kern được đưa tới một phòng giam khác trong đó đã có bốn người.
Theo Kern thì tất cả đều là những kẻ di trú nhưng anh không buồn để ý.
Quá mệt, anh tới chỗ nằm ngay. Tuy thế Kern không tài nào ngủ được.
Khoảng quá nửa đêm, thêm hai người nữa tới. Kern không thấy họ nhưng
nghe tiếng động.

Một giọng nói rụt rè trong bóng tối chợt vang âm:

- Mình ở đây có lâu không... Chừng nào họ thả ra...

Mãi một lúc sau mới có một giọng trầm trầm gắt gỏng:

- Cái đó còn tùy, nếu bạn ăn trộm và giết người thì tù chung thân. Nhưng nếu ám sát vì lý do chánh trị thì tám ngày thôi.

- Không phải, tôi mới bị bắt lần thứ hai vì không có giấy thông hành.

Giọng trầm vang lên:

- Vậy là nặng hơn nhiều. Ít lắm là bốn tuần.

- Chúa ơi! Vậy con gà quay của tôi sẽ ra sao... Chết rồi, tôi để nó trong vali. Chờ tới tôi ra, nó sẽ…

- Cố nhiên.

Kern lắng tai:

- Ông bạn đã có lần bị bắt và làm hé mất một con gà quay, phải không...

- Dạ phải. Xin lỗi ông là ai... Sao ông biết...

Kern phì cười. Tự nhiên anh cười đến gần ngộp thở. Anh không thể nào dằn
được. Anh cười như điên dại, cười cho những ngày tháng tù tội đã qua,
cười cho hả tức vì bị bắt oan, cười cho sự cô đơn, cười cho nỗi lo âu
của Ruth. Anh cười và cười mãi một lúc lâu. Cuối cùng, Kern thở hổn hển:

- Con Gà! Chính là Con Gà bằng xương bằng thịt. Thật tình cờ!

Gã Con Gà nổi nóng:

- Tình cờ cái gì... Đó là một sự bất hạnh.

Người có giọng trầm cheo vào:

- Dường như ông bạn không được may mắn lắm với những con gà quay.

Một người khác ra chiều tức bực:

- Im đi! Người không có quê hương mà chỉ rên rỉ vì món ăn!

Giọng trầm làm ra vẻ quan trọng:

- Vậy là ông bạn với mấy con gà đó có sự liên hệ mật thiết.

Người vừa bảo “mất quê hương” gắt lên:

- Thì cứ ăn mỡ ngựa gỗ cũng được.

Giọng trầm không nhịn được:

- Có lẽ kiếp trước của ông ta là chồn nên bây giờ bị gà trả thù.

Anh chàng Con Gà cố nói lần chót:

- Thật là hạ cấp! Ai lại đi chế giễu một kẻ không may!

Bỗng có tiếng quát vang:

- Im đi! Đây là nhà tù chớ không phải hộp đêm.
Về Đầu Trang Go down
https://duonghoalac-hoabinh.forumvi.com
Admin
Admin
Admin
Admin

Tổng số bài gửi : 1754
Điểm : 6794
Ngày tham gia : 22/12/2010
Tuổi : 38
Đến từ : Hà Nội
Level: 38 Kinh nghiệm: 1754%
Sinh mệnh: 1754/100
Pháp lực: 38/100

NGƯỜI ĐIỀU HÀNH
Phù hiệu: Bản du ca cuối cùng - Erich Maria Remarque POLLICE

Bản du ca cuối cùng - Erich Maria Remarque Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Bản du ca cuối cùng - Erich Maria Remarque   Bản du ca cuối cùng - Erich Maria Remarque Icon_minitimeThu Apr 14, 2011 7:50 pm

Chương 11

Kern ký tên vào giấy trục xuất lần thứ hai ra khỏi nước
Aùo. Đây là lần trục xuất vĩnh viễn. Anh không thấy có gì cần nghĩ ngợi.
Anh chỉ nghĩ là ngày mai mình lại sẽ có mặt tại khu hội chợ Prater.

Người công chức hỏi:

- Anh còn gì ở đây để mang theo không...

- Dạ, không.

- Anh có biết là sẽ bị ba tháng tù nếu trở lại Vienne không...

- Dạ, biết.

Người công chức nhìn Kern một lúc khá lâu. Ông cho tay vào túi và lấy ra một tờ giấy năm Đức kim.

- Đây, cầm lấy. Tôi không có quyền thay đổi luật lệ. Nếu có uống thì uống Gumpoldskirchner. Dạo nầy ngon lắm. Thôi, đi đi.

Kern hết sức ngạc nhiên:

- Cám ơn ông – Đây là lần đầu tiên anh được một viên chức Cảnh sát cho tiền – Cám ơn ông thật nhiều.

- Được rồi, được rồi. Người dẫn đường đang chờ ở ngoài.

Kern nhận tiền. Với món tiền nầy chẳng những anh có thể trả hai ly rượu
chát mà còn vừa đủ để mua vé xe để trở lại Vienne. Như vậy ít nguy hiểm
hơn.

Họ đi cùng một con đường mà Kern đã đi với Steiner lần đầu tiên. Kern có
cảm tưởng như đã cách xa tới mười năm. Ra khỏi nhà ga họ còn phải đi bộ
thêm một quãng. Họ ghé vào một quán nước. Trước sân nhà có một vài bàn
ghế. Kern nhớ tới lời khuyên của viên chức Cảnh sát tốt bụng. Anh nói
với người đưa đường:

- Mình uống Gumpoldskirchner đi. Dạo nầy tốt lắm.

- Cũng được. Trời chưa tối hẳn.

Cả hai ngồi trong khoảnh vườn nhỏ. Quanh họ, tất cả đều yên tĩnh. Nền
trời cao và trong. Một chiếc phi cơ bay vù qua về phía nước Đức trông
như một con **** ưng. Người chủ quán đặt lên bàn một chiếc đèn bão. Đây
là một buổi chiều đầu tiên Kern được ngồi ngoài trời. Suốt hai tháng qua
anh không hề nhìn thấy đất trời mút mắt. Anh có cảm tưởng như vừa được
thở lần đầu tiên. Anh cố tận hưởng những giây phút thần tiên. Khoảng một
hay hai giờ đồng hồ sau, cuộc chạy trốn, lẩn tránh lại tái diễn.

Người có số phận áp giải bỗng lên tiếng:

- Buồn nôn quá.

Kern ngước mắt:

- Đó cũng là ý của tôi.

- Không phải như cậu nghĩ đâu.

- Tôi cố tưởng tượng cho phù hợp.

Người đưa đường nhìn trời:

- Tôi muốn nói với các người. Chính những kẻ di trú như các người làm hạ
giá nghề nghiệp của bọn nầy. Ngày tối, cứ phải lo đưa mấy người đi. Từ
Vienne tới biên giới. Chán quá! Phải chi áp giải những đoàn tù chính
cống có còng tay!

- Biết đâu trong vòng một hay hai năm nữa các ông sẽ có dịp áp giải chúng tôi, bị còng tay đàng hoàng.

Người đưa đường nhún vai:

- Trên phương diện Cảnh sát, các người chẳng là cái thá gì cả. Đã có lần
tôi áp giải mấy tên cướp của giết người, lúc nào cũng sẵn sàng nổ súng.
Một lần nữa lại phải áp giải một tên chuyên mổ bụng xác chết, thằng
Teddy. Như vậy mới đáng kể. Bây giờ… với các người… chán quá!

Ông ta uống cạn ly:

- Kể ra thì anh cũng rành về rượu chát. Mình uống một tua nữa. Lần nầy để tôi trả.

- Tùy ông.

Cả hai uống cạn cùng một lúc và lên đường. Dơi và **** đêm bay lượn chung quanh họ.

Ngôi nhà quan thuế sáng choang. Cũng vẫn những nhân viên cũ. Một người bảo Kern:

- Chờ một chút. Hãy còn sớm.

Kern cười:

- A, bộ rành lắm rồi, hả...

- Vâng. Biên giới là quê hương của chúng tôi.

Qua sáng hôm sau, Kern đã lại có mặt tại khu Prater. Anh không dám đến
thẳng căn nhà di động bằng bánh xe của Steiner, sợ phá giấc ngủ. Anh đi
vơ vẩn trong rừng. Cây cối ướt đẫm sương. Mùa thu đã tới trong thời gian
Kern ở tù. Kern nhấc lá phủ của trại kỵ mã lên và chui vào trong. Như
vậy là anh không còn phải sợ Cảnh sát …

Kern giựt mình thức giấc vì có tiếng cười. Trời đã sáng tỏ. Các lá phủ
đã được vén lên. Anh nhảy chồm dậy. trước mặt anh là Steiner.

- Steiner! Cám ơn Thượng đế!

- Xong rồi, cậu bé! Đứa con hoang đã trở về. Lại đây coi. Ốm và xanh xao lắm. Sao không tới đằng đó...

- Biết anh còn ở đó không.

- Cũng phải. Nhưng dẹp hết, đi ăn cái đã và thế giới đổi khác ngay – Anh
hướng về phía nhà du mục – Lilo, thằng bé trở về đây. Nó đang đói – Anh
lại quay về Kern – Lớn lắm rồi, có học hỏi thêm được gì không...

- Có chớ, học được là phải cứng rắn nếu không muốn chết mòn. Biết may và
nói chút ít tiếng Pháp. Quan trọng hơn cả và hữu ích hơn cả là phải
biết ra lịnh chớ không phải van xin.

Steiner cười khoan khoái:

- Vậy là khá lắm rồi, bé con!

- Ruth đâu anh...

- Ở Zurich. Bị trục xuất. Ngoài ra chẳng có gì đáng ngại. Lilo còn giữ
cho cậu mấy cái thơ. Cô ta lãnh vai trò hộp thơ có giấy tờ hợp lệ.

- Ở Zurich…

- Chớ còn gì nữa! Bộ chưa nghe rõ sao...

Kern lơ đãng lắc đầu:

- Chưa…

- Ruth ở với mầy người bạn. Cậu cũng phải đi Zurich. Ở đây coi bộ bắt đầu khó sống.

- Chắc phải vậy.

Lilo tới. Nàng chào tự nhiên như Kern vừa mới đi dạo đâu đó trở về. Đối
với nàng, việc vắng mặt trong hai tháng chẳng có gì đáng kể. Nàng đã rời
xa đất nước Nga gần hai mươi năm và cũng đã từng gặp lại những người
tưởng đâu đã biệt tích ở Tàu hoặc Xi - bê - ri hằng mười mấy năm trời.

Vẫn bình thản, Lilo đặt mâm đựng tách và bình cà phê lên mặt bàn. Steiner bảo:

- Đưa mấy cái thơ cho Kern, Lilo. Cậu ta không ăn nổi nếu chưa được đọc thơ.

Lilo chỉ vào mâm. Mấy bức thơ tựa nghiêng vào một cái tách. Kern xé bao
ra. Anh bắt đầu đọc và quên tất cả. Đây là những bức thơ đầu tiên được
nhận từ Ruth. Và cũng là bức thơ tình đầu tiên của đời anh. Tất cả đột
nhiên biến mất, nỗi thất vọng không được gặp lại Ruth, sự lo sợ; cuộc
sống cô đơn. Anh càng đọc được những nét chữ càng như chiếu sáng ra. Thì
ra, trên đời nầy cũng còn có người lo nghĩ tới anh. “Yêu anh. Ruth của
anh”, sung sướng quá. Ruth của anh. Nhưng anh là gì của Ruth... Phải
chăng anh chỉ là một vài chai nước hoa, một ít xà bông mà Ruth mang
theo... Anh là một con người. Một con người nguyên vẹn. Và em cũng là
một con người. Tóc em đen, mắt em ngời sáng…

Kern ngước mắt lên. Lilo đã vào trong. Steiner hút thuốc:

- Không có gì, chớ...

- Ruth bảo tôi đừng tới. Sợ nguy hiểm.

Steiner cười:

- Phụ nữ ai cũng thế. Thôi uống cà phê và ăn đi.

Anh ta dựa vào ngôi nhà lăn, nhìn Kern ăn. Aùnh nắng xuyên qua màn sương
bạc, vờn trên mặt Kern. Anh có cảm tưởng như đang thở trong hơi rượu.
Mới sáng qua, giữa căn phòng hôi hám, anh còn quậy muỗng trong một cái
ga - men nhôm móp méo đựng đầy súp loãng như nước rữa dĩa, trong khi gã
du thủ du thực đánh rắm một tràng dài. Bây giờ, gió nhẹ ban mai vuốt má
anh, anh được ăn bánh mì trắng, uống cà phê ngon, trong túi có mấy bức
thơ của Ruth và bên cạnh có Steiner.

- Bị bắt đôi khi cũng có lợi. Nhờ có vậy, sau đó mình mới thấy đời xinh đẹp.

Steiner gật đầu:

- Có tính đi ngay tối nay không...

- Tôi vừa muốn đi mà cũng vừa muốn ở lại. Phải chi mình được đi chung…

Steiner đưa Kern một điếu thuốc:

- Vậy thì ở tạm đây một vài hôm. Coi bộ chưa khỏe lắm. Cần phải đủ sức
mới có thể đi đường. Ở Thụy Sĩ không phải là chuyện đùa. Tới một xứ lạ,
cần nhứt là sức khỏe được đầy đủ.

- Còn việc gì để làm không...

- Cậu có thể trông coi gian hàng bắn bia và ban đêm giúp thêm vài xuất biểu diễn mắt thần.

- Anh có lý. Tôi sẽ ở lại đây vài ngày để lấy lại sức trước khi lên
đường. Không biết tại sao đói quá. Không những chỉ dạ dày trống rỗng mà
đói cả mắt, cả đầu. Phải sắp xếp lại trước đã.

Steiner cười thông cảm:

- Lilo mang đồ ăn tới rồi kìa. Cứ ăn cho no. Tôi đi gọi lão Potzloch dậy.

Lilo hỏi Kern. Giọng Đức nàng còn cứng:

- Cậu ở lại, hả...

Kern gật đầu.

- Đừng lo nhiều. Ruth vẫn mạnh khỏe. Tôi có tài coi tướng mà.

Kern muốn bảo là anh không phải lo như thế mà chỉ sợ Ruth bị bắt trước
khi anh tới Zurich… Nhưng khi nhìn thấy nét trầm buồn trên khuôn mặt
người thiếu phụ Nga, anh không nói. Tất cả đều bé nhỏ so với nỗi đau khổ
triền miên ấy.

Chuyện xảy ra buổi chiều hai hôm sau đó. Một vài người tới gian hàng bắn
bia. Lilo bận với đám trẻ nên Kern tiếp đón các người kia.

Kern trao súng cho người đứng trước. Họ bắn trúng nhiều điểm và nhắm bắn
những hòn bi đang nhảy múa trong tia nước. Sau cùng, họ đòi xem danh
sách các thành phần thưởng và bắt đầu bắn thật sự.

Hai người đầu tiên bắn được bốn mươi ba và bốn mươi bốn điểm. Họ lãnh
được một con gấu nhồi bông bông và một hộp đựng thuốc mạ bạc. Người thứ
ba, thấp bé râu mép màu nâu, tỏ ra là một tay thiện xạ. Ông ta bắn được
bốn mươi tám điểm. Hai người bạn vỗ tay khen. Lilo đưa mắt ra hiệu với
Kern.

Nhà thiện xạ đầy nón ra phía sau:

- Năm phát nữa.

Kern nạp đạn. Ba phát đầu ông ta bắn trúng mười hai điểm. Kern nhìn cái
rỗ đựng dĩa bạc chạm, vật gia truyền của Potzloch. Nếu tiếp tục bắn
trúng như thế hai phát nữa, ông ta sẽ chiếm được lô độc đắc nầy.

Kern nạp đạn vào súng một viên đạn”quỉ quái” phát súng chỉ trúng sáu điểm. Nhà thiện xạ đặt súng xuống:

- Cái gì vậy... Có một cái gì không ổn. Không bao giờ tôi bắn sai cả,

Kern đỡ lời:

- Dạ chắc tay ông run một chút. Cũng cây súng đó mà.

Ông ta quắc mắt:

- Run thế nào được. Một sĩ quan Cảnh sát kỳ cựu không bao giờ run. Bắn là nghề của tôi mà.

Kern hơi thất sắc. Một nhân viên Cảnh sát mà lại mặc thường phục thì càng đáng ngại hơn. Người Cảnh sát nhìn Kern đăm đăm:

- Phải có một cái gì không ổn.

Kern không đáp. Anh trao cây súng đã nạp đạn cho ông ta. Lần nầy, anh
cho vào một viên đạn thông thường. Viên đội trưởng nhìn Kern trước khi
nhắm bắn. Phát đạn trúng số mười hai. Ông ta đặt súng xuống hất đầu về
phía Kern:

- Thấy chưa...

- Đó là chuyện tự nhiên.

- Chuyện tự nhiên... Không tự nhiên được, bốn lần mười hai và một lần sáu. Không thể tin được.

Kern không trả lời. Viên đội trưởng kề sát mặt tới:

- Dường như tôi có gặp anh ở đâu đó... …

Mấy người bạn ông ta chen vào. Họ la ó đòi phải đền một phát khác.

Lilo bước tới:

- Chuyện gì vậy... Có gì xin quí vị cứ nói với tôi. Cậu nầy mới tập sự thôi.

Hai người kia nói chuyện với Lilo. Riêng người Cảnh sát vẫn tiếp tục nhìn Kern để cố nhớ ra. Kern không nháy mắt:

- Tôi sẽ cho ông giám đốc hay để ông ấy quyết định.

Kern muốn để ông ta bắn một phát nữa nhưng nhớ tới lời dặn tha thiết của
Potzloch, anh im lặng. Anh cố trấn tĩnh, từ từ đến thay chỗ cho Lilo.

Lilo đề nghị với Cảnh sát một giải pháp dung hoà. Ông ta sẽ bắn lại năm
phát. Dĩ nhiên là không tốn tiền. Hai người kia không đồng ý. Lilo liếc
sang chỗ Kern. Thấy mặt anh tái mét, nàng quyết định tự mình xoay sở
ngay. Nàng cười với tên đội trưởng:

- Người như ông thì có bắn bao nhiêu phát nhứt định cũng vậy thôi. Đấy,
nhà thiện xạ hãy trổ tài một lần nữa cho mọi người thưởng thức.

Được khen, người Cảnh sát cười hãnh diện. Lilo sờ vào bàn tay lông lá của ông ta:

- Một bàn tay như thế nầy thì chắc chắn không bao giờ run.

- Run... Không bao giờ!

Lilo trao khẩu súng. Viên đội trưởng bình tĩnh bắn. Tất cả được năm mươi tám điểm. Lilo tươi cười:

- Chúng tôi chưa bao giờ hân hạnh gặp được một người có tài thiện xạ như ông. Như thế là bà nhà khỏi phải sợ ai cả.

- Tôi chưa có vợ.

Lilo nhìn thẳng vào mắt ông ta:

- Chắc tại ông chưa thấy cần.

Viên đội trưởng cười tự mãn. Lilo lấy rổ đựng các bộ dĩa bạc trao cho ông ta. Trước khi đi, ông ta còn nhìn Kern một lần nữa:

- Tôi sẽ trở lại đây với sắc phục và chắc chắn là sẽ có chuyện vui nói với anh.

Họ vừa đi khỏi, Lilo đã hỏi Kern:

- Hắn có biết cậu không...

- Không hiểu. Dường như tôi chưa gặp ông ta lần nào. có thể là ông ta đã nhìn thấy tôi một nơi nào đó.

- Cậu nên nói lại với anh Steiner để anh ấy định liệu.

Người Cảnh sát không trở lại buổi chiều nhưng Kern nhứt định phải đi ngay đêm hôm ấy. Anh nói với Steiner:

- Tôi phải đi. Ở đây coi bộ không được an toàn nữa.

Steiner nhìn ra xa:

- Ừ, đi thì đi. Vài tuần nữa là tôi cũng sẽ đi. Đất Aùo càng ngày càng
khó khăn. Tin tức mấy lúc sau nầy không còn lạc quan. Mình tới gặp lão
Potzloch một chút.

Pothzloch đang giận dữ vì bị mất cái rổ bạc gia truyền.

- Cậu biết không, vậy là mất toi ba chục Đức kim. Cậu hại tôi quá!

Steiner phân giải:

- Đó là trường hợp bất khả kháng. Vả lại, đằng nào thì cũng đã mất rồi. Kern đến chào ông để đi.

Potzloch sửng sốt:

- Ủa! Vậy hả...

Ông ta móc tiền trả cho Kern rồi kéo anh tới gian hàng bắn bia.

- Cậu bé, cậu sẽ biết nhà từ thiện Leopold Potzloch nầy là ai. Đây, cậu
cứ tự nhiên chọn lấy một vài món kỷ niệm. Aø không, cậu có quyền bán
lại. Cứ chọn đi, món nào cũng được.

Ông ta bỏ đi thật mau, không ngoảnh lại. steiner cười:

- Cứ chọn đi. Mấy món lặt vặt này coi vậy mà dễ bán. Nên lựa mấy thứ nhẹ. Mau đi, kẻo ông ta hối hận quay trở lại.

Potzloch không nuốt lời. Lúc ông ta trở lại, Kern đã chọn xong, mấy cái
gạt tàn thuốc và lược chải tóc. Potzloch còn lấy thêm cho Kern mấy pho
tượng nhỏ bằng đồng. Ông ta cười khinh mạn:

- Dân tỉnh lẻ rất thích những thứ nầy. Kern, xin Thượng đế phò hộ cho
cậu! Tôi phải đi bây giờ để dự một cuộc họp chống thuế hí cuộc. Thời đại
chúng ta lại có thêm một thứ thuế… thuế hí cuộc. Mọi nguồn vui đều phải
đóng thuế.

Kern chuẩn bị hành trang rồi dùng bữa với Steiner và Lilo. Steiner bảo:

- Tha hồ buồn, cậu bé. Những người anh hùng Hy Lạp thời cổ cũng khóc
không thua các bà đa cảm thời nay. Cứ buồn, và cứ khóc, nếu cần. Sau đó,
hãy mạnh dạn tiến lên.

Lilo chuyển sang Kern một dĩa kem:

- Đôi khi… buồn cũng có nghĩa là hạnh phúc.

Steiner vuốt tóc Kern:

- Hạnh phúc của một tay tứ chiến là một bữa ăn ngon. Đừng quên mình cũng
là một chiến sĩ. Một chiến sĩ tiền tuyến. Một hướng đạo viên. Một kẻ
khai phá tinh thần công dân thế giới. Chúng ta có thể bay qua mười biên
giới trong một ngày. Quốc gia nầy cần tới quốc gia khác, nhưng hầu hết
biên giới đều bọc sắt và nhiều nước đã chìm ngập trong thuốc súng. Phải
biết hãnh diện vì mình là một trong những công dân khia phá.

Kern cười buồn:

- Hãnh diện là phải. Nhưng tôi sẽ làm gì đêm nay khi chỉ còn lại một mình...

Kern đi chuyến xe đêm. Anh mua vé hạng rẻ tiền và sau một vài lần quanh
co, anh tới Inrsbruck. Từ đó, anh đi bộ với hy vọng đón xe đi nhờ. Kern
không gặp xe nào cả. Đêm ấy, anh ghé vào một quán cóc, ăn đỡ đói một dĩa
khoai tây chiên. Aùp dụng kỹ thuật đã được tên trộm dạy lúc trong tù,
anh lẻn vào một trại rơm ngủ qua đêm.

Sáng sớm, Kern lên đường. Anh đi nhờ một chiếc xe tới Landeck. Anh kiếm
được năm Đức kim nhờ bán cho người lái xe một pho tượng nhỏ mà lão
Potzloch đã tặng. Đến tối thì trời mưa. Kern lại tạt vào một quán cóc
kiếm thức ăn và chơi bài Tarot với một vài tiều phu. Anh thua mất ba Đức
kim. Kern trằn trọc mãi. Đã vậy anh còn phải trả cho chủ quán hai Đức
kim về đêm ngủ trọ. Cuối cùng, anh ngủ thiếp đi. Sáng hôm sau, Kern tiếp
tục hành trình. Anh đón một chiếc xe, nhưng người lái đòi phải trả năm
Đức kim. Đó là chiếc xe hiệu Austro - Dainler trị giá đến mười lăm ngàn
Đức kim. Kern từ chối. Một lúc sau, anh được người nông dân cho đi nhờ
trên xe bò, lại còn cho anh một khúc bánh mì thịt. Đêm đến, anh ngủ
trong ổ rơm. Trời mưa. Kern lắng tai nghe tiếng mưa buồn giữa mùi rơm
sắp sửa lên men.

Buổi sáng, anh qua đèo Arlberg. Giữa lúc Kern gần mệt lả thì bị một cảnh
binh bắt gặp. Thế là anh lại phải cố đi bộ ngược lại bên cạnh chiếc xe
đạp của người cảnh binh, cho tới Sankt - Anton. Anh bị nhốt đêm ấy và
không tài nào ngủ được vì sợ nhà chức trách biết được là anh đã từ
Vienne tới. Nếu họ trả anh về đó, nhứt định là sẽ bị tù. Tuy nhiên, ở
đây người ta nghĩ rằng anh chỉ muốn vượt biên giới tại chỗ thôi nên thả
anh ra. Kern gởi va - li đi trước bằng đường xe lửa tới Feldkirch rồi đi
bộ sau với dụng ý không để cho người cảnh binh hôm qua nhận ra anh.
Sáng hôm sau, Kern tới Feldkirch lấy va - li. Đến tối, anh lội bộ qua
sông Rhin với chiếc va - li và quần áo đội trên đầu. Thế là anh đã vào
lãnh địa Thụy Sĩ.

Kern tiếp tục đi luôn hai đêm nữa để qua khỏi khu vực nguy hiểm. Anh gởi va - li trước và đi nhờ một chiếc xe tới Zurich.

Kern tới nhà ga trung ương buổi chiều. Anh gởi va - li lại. Tuy đã có
địa chỉ trong tay nhưng Kern không dám tìm tới Ruth ban ngày. Anh đi vơ
vẩn ở nhà ga và tìm đến một tiệm tạp hoá Do Thái hỏi thăm xem uỷ ban cứu
trợ dân tỵ nạn ở đâu. Kern được chỉ tới một nơi chuyên lo cứu trợ người
Do Thái.

Kern trình bày hoàn cảnh với người thơ ký và cho biết mới vượt biên giới hôm qua.

- Hợp pháp, hả...

Kern lắc đậu.

- Có giấy tờ gì không...

- Nếu có, tôi đã không tới đây.

- Dân Do Thái...

- Không. Lai Do Thái.

- Theo đạo gì...

- Tin lành.

- Tin lành hả... Vậy thì chúng tôi không thể giúp được nhiều. Phương
tiện chúng tôi rất eo hẹp. Vả lại, đây là một cơ sở tôn giáo nên chúng
tôi chỉ chú trọng đến những người cùng đạo thôi.

Kern chua chát:

- Vâng, tôi hiểu. Người ta tống cổ tôi ra khỏi nước Đức chỉ vì cha tôi
là Do Thái. Và ông không thể cứu giúp tôi vì mẹ tôi là người theo đạo
Tin Lành.

Người thơ ký nhún vai:

- Rất tiếc là ở đây chúng tôi đã nhận được phẩm vật của những người đồng đạo.

Kern hỏi:

- Như vậy ít ra ông cũng có thể chỉ giúp tôi một nơi nào để tạm trú vài hôm mà không cần phải khai báo...

- Rất tiếc, tôi không thể thẩm quyền. Quy lệ ở đây rất chặt chẽ, chúng
tôi bắt buộc phải tuân theo. Chỉ còn cách là đến trình Cảnh sát và xin
giấy lưu trú.

Kern cười chán nản:

- Tôi đã có một ít kinh nghiệm về vấn đề nầy.

Người thơ ký nhìn kỹ Kern rồi bảo:

- Cậu đợi một chút.

Ông ta vào một lúc rồi quay ra với tờ giấy bạc hai chục quan:

- Cậu cầm đỡ một ít, chúng tôi không còn cách nào hơn.

- Cám ơn. Tôi cũng không dám mong nhiều hơn thế.

Kern cẩn thận xếp tờ giấy bạc cho vào bóp. Đây là khoản tiền Thụy Sĩ duy nhứt mà anh có.

Ra tới đường, anh đứng lại và không biết phải đi đâu.

- A, ông Kern.

Một giọng nói pha lẫn đôi chút chế nhạo vang lên phía sau Kern. Anh giựt
mình, quay phắt lại. Một thanh niên ăn mặc khá chỉnh tề mỉm cười Kern:

- Đừng sợ. Tôi cũng từ trong đó ra – hắn chỉ tay về phía uỷ ban cứu trợ – chắc đây là lần đầu tiên anh tới Zurich...

Kern đo lường thái độ của hắn trước khi đáp:

- Vâng tôi tới đây lần đầu.

- Tôi đoán thế mà đúng. Anh trình bày có phần, xin lỗi, hơi vụng về. Cần
gì phải khai đạo tin lành. Tuy nhiên, dầu sao họ cũng giúp anh chút
đỉnh. Nếu anh không cho là vô phép, tôi xin được phép giúp anh một vài
chỉ dẫn. Tên tôi là Binder. Chúng mình đi kiếm cà - phê, anh vui lòng
chớ.

- Rất sẵn sàng. Ở đây có quán nào dành riêng cho những người di trú hay cùng loại như vậy không...

- Có quá nhiều. Tốt hơn là tới quán Greif, cách đây không xa. Cảnh sát cũng khônh hề tới đó.

Họ tới quán Greif. Quán nầy giống với quán Speeler ở Vienne như hai giọt nước. Binder hỏi:

- Anh từ đâu tới...

- Từ Vienne.

- Vậy thì nên kiểm soát lại các thói quen. Phải cẩn thận lắm mới được.
Anh có thể xin lưu trú vài ngày không mấy khó nhưng sau đó là phải đi
ngay. Hiện thời anh chỉ có hai phần trăm xin được giấy nhưng lai còn tới
chín mươi tám phần trăm bị trục xuất.

- Đó không phải là vấn đề.

- Đúng vậy. Và anh có thể bị cấm trở lại trong thời hạn từ một đến năm năm tuỳ theo trường hợp. Bị bắt được sẽ ở tù.

- Thì ở đâu cũng vậy.

- Tốt lắm. Bây giờ vấn đề là phải khéo léo trốn tránh như thế nào cho tới khi bị lộ tung tích.

Kern gật đầu:

- Nhưng còn việc làm...

Binder cười:

- Hoàn toàn không. Thụy Sĩ là một nước quá nhỏ lại có sẵn không biết bao nhiêu người thất nghiệp.

- Lại vẫn một tiểu luận: Hoặc là chết đói hợp pháp hay bất hợp pháp hoặc là bất cần luật lệ.

- Chí lý – Binder thẳng thắn nhìn nhận – mòn thêm một vấn đề là đặc tính
của mỗi địa phương. Zirich thì quá tệ. Cảnh sát ở đây có quá nhiều
nhiệt tâm. Vùng nào chịu ảnh hưởng Pháp có vẻ dẽ thở hơn như Genève
chẳng hạn. Vùng Tessin cũng khá nhưng chỉ có những thị trấn quá nhỏ. Anh
định sanh sống ra sao... Công khai hay bí mật...

- Tôi chưa hiểu…

- Nghĩa là anh định chỉ hoàn toàn sống nhờ vào đồng tiền cứu trợ hay buôn bán lặt vặt...

- Tôi thích buôn bán hơn.

- Nguy hiểm lắm. Họ coi đó là một nghề. Bị xử phạt gấp đôi. Lưu trú bất hợp pháp và hành nghề lậu, nhứt là khi bị tố cáo.

- Bị tố cáo...

Binder cười chua chát:

- Chính tôi đã bị tố cáo bởi một người Do Thái triệu phú. Ông ta nổi
sùng vì bị tôi xin tiền để mua vé xe đi Bâle. Nếu có bán, chỉ nên bán
những món nhỏ như viết chì, dây giày, nút áo, bàn chải đánh răng v. v…
Đừng bao giờ mang va - li, hộp hay xách cặp. Tốt hơn hết là cho cả vào
túi. Mùa nầy lại càng thuận tiện vì đã vào thu, nhiều người mặc áo
choàng. Anh thường bán những gì...

- Xà bông, nước hoa, lược, kẹp tóc và mấy món nho nhỏ khác.

- Vậy là tốt. Món đồ càng ít giá trị lại càng dễ kiếm lời. Phần tôi thì
chẳng bán buôn gì cả. Tôi sống hoàn toàn như một ký sinh trùng của các
cơ sở từ thiện. Thế là tôi khỏi bị bắt về tội hành nghề lậu nhưng vẫn bị
tội du thủ du thực và hành khuất. Bạn có địa chỉ nào đó không...

- Địa chỉ gì...

Binder ngả người ra lưng nghế, trố mắt nhìn Kern:

- Chúa ơi! Đây chuyện quan trọng hơn tất cả. Phải có địa chỉ của những
người mà định tới gặp chớ. Không lẽ cứ trốn chui trốn nhũi hết nhà nầy
sang nhà kia. Được ba hôm là cùng.

Hắn mời Kern một điếu thuốc và nói tiếp:

- Tôi sẽ cho anh một lô địa chỉ của những người tin cậy được. Có ba
hạng: những người Do Thái mộ đạo, ít mộ đạo và những người công giáo.
Tôi cho không anh. Trước đây, tôi đã phải trả hai chục quan mới mua được
một ít địa chỉ đầu tiên.

Hắn quan sát Kern:

- Quần áo anh còn tốt. Đó là điều kiện thích hợp ở Thụy Sĩ. Cảnh sát họ
tinh mắt lắm. Aùo choàng cũng phải tươm tất để nếu cần thì che giấu bộ
đồ rách ở trong. Tuy nhiên, vẫn có chỗ trở ngại là nhiều người nhứt định
không chụi bố thí khi quần áo của mình còn tốt. Anh có chuyện gì hay
hay không...

Hắn ngước mắt và bắt gặp cái nhìn thẫn thờ của Kern:

- Tôi biết anh đang nghĩ chuyện gì. Trước đây, tôi cũng vậy. Nhưng, tin
tôi đi, chỉ một việc làm thế nào để sống được trong cảnh khổ cũng đã làm
một nhệ thuật rồi. Lòng từ thiện là một con bò sữa khó vắt mà lại quá
ít sữa. Tôi đã gặp một số người dự bị sẵn ba mẩu chuyện khác nhau thuộc
loại tình cảm, tàn bạo hay hiện thực. Tùy trường hợp, họ kể lể ra để
kiếm vài quan. Nhưng nền tảng của tất cả các chuyện đó vẫn cứ là: nhu
cầu, chạy trốn và dạ dầy trống rỗng.

- Vâng, tôi biết nhưng có điều là chưa nghĩ tới. Tôi rất ngạc nhiên về những hiểu biết chính xác và thiết thực của anh.

- Có gì đâu. Đó chỉ là những kinh nghiệm gạn lọc sau ba năm chiến đấu để
sống còn. Tôi thì quỷ quyệt, thật vậy, nhưng thằng em tôi thì lại quá
chất phát. Nó đã tự vẫn cách nay một năm.

Nét mặt Binder biến đổi trong giây lát rồi trở lại bình thường. Hắn đứng lên:

- Đêm nay nếu không biết ngủ ở đâu thì đến với tôi. Tình cờ tôi tìm ra
một chỗ trú ẩn được tới tám ngày. Phòng của một người quen đang nghỉ
phép. Tôi sẽ trở lại đây khoảng mười một giờ. Đến nửa đêm là Cảnh sát đi
tuần. Nên cẩn thận, nhứt là với những nhân viên mặc thường phục.

- Thụy Sĩ coi vậy mà nguy hiểm. Nhờ trời được gặp anh, nếu không, có lẽ tôi bị bắt ngay đêm nay. Xin cám ơn anh.

Bider khoác tay:

Những người đã ở tận dưới bùn đen đều phải biết yêu thương nhau. Tình
bằng hữu của bọn mình cũng giống như của giới bất lương. Mỗi người chúng
ta có thể lâm nguy một ngày nào đó, phải giúp đỡ lẫn nhau. Nhớ trở lại
lúc mười một giờ.

Hắn trả lại tiền và ung dung ra khỏi quán.

Kern ngồi lại cho tới lúc trời tối. Anh đã mua được một bản đồ thành phố
và ghi nhớ con đường tới chỗ ở của Ruth. Anh đi dọc theo các lề đường,
chân bước gấp, đầu óc nóng ran. Khoảng nửa giờ sau, anh nhìn thấy ngôi
nhà tại một khu phố hoàn toàn yên tịnh. Ngôi nhà trắng xóa dưới ánh
trăng. Tới trước cửa, Kern bỗng dừng lại. nhìn nắm cửa to lớn bằng đồng,
anh do dự. Anh không itn rằng sau khi mở cửa và đi thẳng lên lầu là sẽ
gặp lại Ruth ngay. Từ lâu rồi, anh có thói quen hay sợ những gì quá giản
dị. Anh ngước mắt nhìn lên các cửa sổ. Rất có thể là Ruth vắng nhà.
Hoặc nàng không còn ở Zurich nữa.

Kern đi qua trước nhà và ghé vào một tiệm bán thuốc hút. Anh hỏi mua một
gói. Người đàn bà vẻ mặt cau có đứng sau quầy đẩy gói thuốc và một bao
diêm tới:

- Năm mươi xu.

Kern vừa trả tiền vừa hỏi:

- Bà có điện thoại không...

- Có. Ở trong góc, bên trái.

Kern lật niêm giám tìm tên Neumann. Hàng trăm tên Neumann hiện ra. Cuối
cùng anh tìm ra số nhà và tên đường. Người đàn bà đứng ở quầy theo dõi
Kern. Khó chịu, anh quay lưng lại phía bà ta. Một lúc lâu mới có tiếng
người ở đầu dây kia.

Kern cố giữ giọng khỏi run:

- Tôi xin được gặp cô Holland.

- Xin cho biết ai ở đầu dây.

- Ludwig Kern.

Tiếng nói ở đầu kia im bặt một lúc lâu rồi tiếng thở hổn hển vang rõ trong ống nghe của Kern.

- Ludwig… Anh đó sao, Ludwig...

Tim Kern đập thật mau:

- Anh đây. Ruth đó hả... Anh không nhận ra giọng nói.

- Anh đang ở đâu... Ở chỗ nào...

- Ở tại đây, Zurich. Trong tiệm bán thuốc lá. Ở đây. Cùng một đường với em.

- Uûa, sao anh không tới... Có chuyện gì không...

- Không. Anh muốn biết chắc là em còn ở đó không. Mình gặp nhau ở đâu cho tiện...

- Tới đây. Lại đây với em, mau đi. Lầu hai.

- Anh biết, nhưng có tiện không... Sợ người nhà…

- Không có ai cả. Em ở có 1 mình. Họ đi nghỉ cuối tuần hết rồi. Lại đây với em.

- Anh tới ngay.

Kern đặt máy xuống. Anh nhìn quanh. Cảnh vật trong tiệm dường như đã thay đổi. Anh trở ra quầy.

- Điện thoại bao nhiêu...

- Mười xu.

- Có bao nhiêu đó thôi, hả...

- Đủ rồi – người đàn bà lấy tiền – còn gói thuốc đằng kia.

- Vâng, vâng.

Kern ra tới đường. Anh tự bảo “Đừng chạy. Đừng làm cho người khác nghi
ngờ. Phải làm chủ thần kinh. Nên đi chậm chậm. Mà không, vẫn có thể đi
mau hơn…”

Ruth đứng sẵn ở đầu thang lầu. Trời tối nên Kern không thể thấy rõ người yêu. Anh vội vàng bảo:

- Coi chừng, anh chưa tắm rửa gì cả. Vali còn để ngoài ga.

Ruth không trả lời. Nàng hơi nghiêng người tới, dáng đợi chờ. Kern bước
lên từng ba nấc một và… Ruth đã ở trong vòng tay anh, nóng ấm và hiện
thực còn rõ ràng hơn sự sống.

Ruth đứng yên. Kern nghe rõ hơi thở của nàng. Anh cũng đứng yên. Bóng
tối vây quanh họ dường như lay động. Kern bỗng nhận ra người yêu đang
khóc. Anh sửa bộ nhưng Ruth lắc đầu, vẫn dựa sát vào anh.

Có mở cửa tầng dưới. Kern nhính người qua một bên để nhìn xuống thang
lầu. Anh nghe tiếng bước chân. Đèn bật sáng, Ruth chợt tỉnh:

- Vào đi anh.

Họ ngồi trong phòng khách của gia đình Neumann. Đây là lần đầu tiên từ
khá lâu rồi, Kern được ngồi trong một căn nhà thật sự. Đồ đạc trong nhà
hầu hết được làm bằng gỗ đào hoa tâm. Ngoài ra còn có một tấm thảm Ba
Tư, mấy chiếc ghế bành, vài ngọn đèn có chụp ánh sáng may bằng lụa màu.
Đối với Kern, khung cảnh chẳng có gì sang quý nầy lại là hình ảnh của
thái hòa, một hòn đảo bình yên.

Kern hỏi:

- Giấy thông hành của em hết hạn hồi nào...

- Gần bảy tuần rồi.

Ruth lấy từ trong tủ ra hai cái ly và một chai rượu.

- Em có xin gia hạnh không...

- Có. Em tới Tòa lãnh sự ở Zurich. Họ từ chối.

- Anh cũng vậy. Chỉ còn chờ phép lạ. Họ coi mình như là kẻ thù của quốc
gia. Những kẻ thù nguy hiểm. Đúng ra, mình phải cảm thấy mình là những
nhân vật quan trọng, đúng không...

- Em không cần gì cả. Bây giờ thì em cũng như anh.

Kern cười. Anh ôm vai Ruth và chỉ vào chai rượu:

- Chai gì vậy... Cognac hả...

- Dạ. Cognac loại quý của nhà nầy. Em cũng uống vì có anh. Nghe tin anh ở
tù, em muốn điên lên. Bọn nó đánh anh, quân ăn cướp. Tất cả chỉ tại em.

Nàng nhìn Kern, mỉm cười. Kern nhận thấy tay nàng run run khi rót rượu.

- Em sợ quá. Nhưng bây giờ có anh là đủ cả.

Hai người cùng uống. Ruth đặt ly xuống. Nàng đã uống cạn một hơi. Quàng cổ Kern với cả hai tay, Ruth nũng nịu:

- Bây giờ em sẽ không để cho anh đi đâu nữa, không bao giờ.

Kern nhìn Ruth. Anh chưa thấy nàng như thế lần nào. Một cái bóng mờ đã
đi qua, Ruth không còn tự khép kín nữa và anh chợt hiểu ra, lần đầu
tiên, nàng đã hoàn toàn thuộc về mình.

- Ruth, anh muốn mái nhà bị hất tung lên rồi một chiếc phi cơ tới đưa
chúng mình ra một hòn đảo xa xôi ở đó có san hô và những hàng dừa, ở đó
không một ai nghe nói tới thẻ thông hành và chứng chỉ lưu trú.

Ruth hôn Kern:

- Em sợ không được vậy đâu. Ngay bên cạnh san hô và những hàng dừa chắc
họ đã bố trí những dàn đại bác và tàu chiến. Ở đó, họ còn kiểm soát gắt
gao hơn ở Zurich.

- Có lẽ đúng. Mình uống một ly nữa… Nhưng Zurich cũng nguy hiểm. Mình không thể lẩn trốn lâu.

- Vậy thì mình đi.

Kern nhìn quanh phòng. Anh khoát tay chỉ bao gồm tất cả bàn ghế, đèn, màn:

- Ruth, ở với em tại một nơi như thế nầy là chẳng gì bằng. Tuy nhiên, em
cần phải nhớ rằng tất cả những đồ vật mà chúng ta đang nhìn thấy sẽ
không còn nữa. Lúc đó chỉ có những con đường dài hun hút, những cuộc lẩn
tránh, những ổ rơm, hoặc một gác trọ tồi tàn… và cũng có thể là tù
ngục.

- Em biết nhưng em không sợ. Đừng lo. Bằng mọi cách em phải rời khỏi nơi
nầy. Người trong nhà đang lo ngại vì em ở không khai báo. Họ sẽ hài
lòng khi em đi. Em còn chút ít tiền để dành. Em sẽ giúp anh mua bán. Vả
lại, em cũng không tốn kém gì nhiều cho anh đâu.

- Vậy à... Em còn tiền và sẽ tiếp anh mua bán... Thôi, đừng nói nữa, anh khóc bây giờ. Đồ đạc có gì nhiều không...

- Em gởi lại đây những gì không cần thiết.

- Tốt. Còn sách vở. Mấy cuốn hóa học to tổ bổ ấy...

- Bàn hết rồi. Em nghe theo lời anh lúc ở Prague. Đừng nên mang theo những gì dính dáng tới cuộc sống trước kia.

Kern cười:

- Vậy là đúng. Em có óc thực tế rồi. George Binder, một thổ công của Thụy Sĩ, đã khuyên anh như thế. Chừng nào mình đi...

- Sáng mốt. Từ bây giờ tới đó mình ở lại đây.

- Tốt quá. Lại có chỗ ngủ rồi. Aø, anh phải tới quán Grief trước mười hai giờ đêm để gặp Binder.

- Đừng đi đâu cả. Anh phải ở đây với em cho tới lúc hai đứa lên đường. Nếu không, em lo lắm.

- Nhưng có tiện không... Còn người giúp việc hay một ai đó có thể… tố cáo mình không...

- Người làm nghỉ cho tới trưa thứ hai. Cô ta sẽ trở về bằng chuyến xe
lửa mười một giờ bốn mươi. Gia đình Neumann thì về khoảng ba giờ chiều.
Mình còn đủ thì giờ.

- Chúa ơi! Chúng mình làm chủ cả một căn nhà như thế nầy à...

- Chớ sao.

- Mình làm chủ căn nhà. Mình tự do ngồi ở phòng khách, vào nằm trong
buồng ngủ, ăn uống có khăn trải bàn trắng muốt, tô dĩa bằng sứ tráng
men, muỗng nĩa bằng bạc, lại còn cà phê và nghe máy thu thanh…

- Và em sẽ nấu nướng theo sở thích của anh, rồi em sẽ mặc áo đẹp của Sylvia Neumann.

- Và anh sẽ mặc áo đuôi tôm của Neumann dầu có rộng thùng thình đi nữa.

- Chắc vừa mà.

- Vậy là tuyệt diệu.

Kern nhảy cẫng lên, nói tiếp:

- Anh sẽ tắm nước nóng và gội rửa thật nhiều xà bông. Lâu quá, chưa hề tắm với xà bông.

- Phải rồi, mình sẽ cho vào bồn nước vài giọt nước hoa hiệu Farr của nhà sản xuất Kern, nổi danh thế giới.

Kern buồn thiu:

- Anh bán hết rồi.

- Em còn một chai của anh cho trong rạp hát ở Prague. Đó là đêm đầu tiên. Em giữ là kỉ niệm.

Kern ngửa mặt lên:

- Xin Thượng đế ban phước lành cho Zurich. Ruth, em đem lại cho anh quá
nhiều hạnh phúc. Hay quá, mình bắt đầu với toàn những điềm lành.
Về Đầu Trang Go down
https://duonghoalac-hoabinh.forumvi.com
Admin
Admin
Admin
Admin

Tổng số bài gửi : 1754
Điểm : 6794
Ngày tham gia : 22/12/2010
Tuổi : 38
Đến từ : Hà Nội
Level: 38 Kinh nghiệm: 1754%
Sinh mệnh: 1754/100
Pháp lực: 38/100

NGƯỜI ĐIỀU HÀNH
Phù hiệu: Bản du ca cuối cùng - Erich Maria Remarque POLLICE

Bản du ca cuối cùng - Erich Maria Remarque Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Bản du ca cuối cùng - Erich Maria Remarque   Bản du ca cuối cùng - Erich Maria Remarque Icon_minitimeThu Apr 14, 2011 7:50 pm

Chương 12

Luôn hai ngày Kern dọ dẫm ngôi biệt thự của ông Cố vấn
thương mại Arnold Oppenheim. Ngôi nhà trắng toát đứng sừng sững như một
lâu đài kiên cố từ trên cao nhìn xuống hồ Quatre - Cantons. Trong số các
địa chỉ của Binder cho, phần ghi chú về Oppenheim được Kern đọc lại
nhiều lần: Đức – Do Thái. Chỉ chịu cho khi bị bắt buộc. Aùi quốc cực
đoan. Đừng nói tới chuyện Do Thái tự trị.

Ngày thứ ba, Kern được đưa vào. Oppenheim tiếp Kern trong một khu vườn
to lớn có nhiều hoa cúc và hướng dương. Trông ông ta khỏe mạnh và lịch
sự. Điểm đặc biệt là các ngón tay đều quá lớn và râu mép quá dầy.

- Cậu vừa từ Đức quốc tới, phải không...

- Thưa không. Tôi đã rời xứ trên hai năm.

- Gia đình hồi đó ở đâu...

- Dạ, ở Dresde.

- Aø, Dresde – ông ta sờ vào cái trán sói bóng lưỡng rồi thở phào ra –
Dresde là một thành phố tuyệt diệu. Một hòn ngọc. Cậu có nhận thấy thế
không...

- Thưa, đúng vậy.

Trời đang nóng bức và Kern nhìn ly nước nho trên chiếc bàn đá trước mặt
Oppenheim. Anh cố tự chủ để khỏi nuốt nước miếng. Oppenheim vẫn thản
nhiên. Ông ta nhìn vào khoảng không êm ả:

- Ở đó có khu Zwinger, có lâu đài, có các phòng triển lãm nghệ thuật… Cậu biết tất cả chớ...

- Dạ, chỉ biết qua thôi.

Oppenheim ném một cái nhìn trách móc:

- Đâu được. Cả một công trình văn hoá đấy. Hoàn toàn phù hợp với dân tộc tính. Chắc cậu biết Daniel Poppelmann...

- Vâng.

Kern cố làm vừa lòng ông ta nhưng sự thật anh chẳng biết tý gì về cái
ông kiến trúc sư tân kỳ ấy cả. Oppeheim ngửa người trên ghế dựa:

- Nước Đức xinh đẹp của chúng ta. Không một ai bắt chước nổi.

- Dạ, chắc chắn là không nổi. Như vậy đỡ hơn.

- Đỡ hơn... Cậu nói sao...

- Đỡ hơn cho những người Do Thái. Nếu nước nào cũng vậy thì chúng tôi chẳng còn một ai sống sót.

- A! Cậu nhìn theo nhãn quan chánh trị. Không một ai sống sót, đại họa, ï
bi thảm… thời nầy người ta hay dùng những từ ngữ quá lớn. Thực ra thì
cũng không đến nỗi nào, tôi biết mà.

- Thưa, thật vậy sao...

- Thật chớ – Oppeheim chồm tới và làm ra điều thân thiết – giữa chúng ta
nói thật cho cậu biết, người Do Thái cũng có trách nhiệm về những gì đã
xẩy ra. Phần lớn trách nhiệm, tôi biết mà.

Kern nghĩ “Không biết ông ta sẽ cho mình bao nhiêu... Có đủ để đi tới Berne không... ”

Oppenheim hớp một ngụm nước nho và giải thích:

- Cứ lấy trường hợp người Do Thái miền đông, những di dân Ba Lan chẳng
hạn. Có nên cho họ vào nước tất cả không... Họ đã làm gì cho nước Đức...
Tôi chán ghét họ cũng như chán ghét chế độ. Người ta bảo Do Thái vẫn cứ
là Do Thái. Có gì liên hệ giữa một gã bán hàng rong bẩn thỉu và một gia
đình Do Thái trưởng giả đã lập cư từ bao nhiêu thế kỷ...

- Bởi vì một số thì ra đi trước còn một số thì chỉ mới tới sau.

Kern vừa nói xong đã biết lỡ lời. Anh sợ làm phật ý Oppeheim. Rất may là
ông ta đang say sưa với vấn đề đã đắt ra nên không để ý.

- Những người kia đã được đồng hoá và trở thành công dân đắc dụng, hữu
ích cho đất nước. Còn bọn họ thì chỉ là những di dân ngoại quốc. Đó
chính là mấu chốt của vấn đề. Bọn mình có liên can gì tới chúng. Tốt hơn
hết là chúng ở lại Ba Lan.

- Nhưng ở đó người ta không muốn có mặt họ.

Oppenheim đưa cả hai tay lên:

- Nhưng việc đó có dính líu gì tới nước Đức. Hoàn toàn khác xa. Mình
phải khách quan mới được. Tôi tiếc là người ta đã vơ đũa cả nắm. Cậu
thấy có phải thế không...

- Vâng.

Kern vừa đáp vừa tính thầm “Hai mươi quan, thế là đủ cho bốn ngày ở trọ. Biết đâu ông ta sẽ cho nhiều hơn”.

Hơi thở của Oppenheim nghe gấp rút:

- Cho dầu cả thế giới không được sung sướng, hoặc một vài nhóm phải chịu
như vậy… cũng đành. Cần phải có những chính sách cứng rắn và mình phải
chấp nhận.

- Dạ. Rất đúng.

- Cậu có thấy quân đội của chúng ta không... Độc nhứt trên thế giới. Chỉ
trong một thời gian ngắn mình đã lấy lại tư thế đại cường. Một dân tộc
mà quân đội chẳng ra gì thì đánh chác với ai...

- Vấn đề nầy, tôi không rành lắm.

Oppenheim lườm Kern:

- Phải biết chớ. Có lẽ tại cậu ở nước ngoài. Các nước khác đã bắt đầu nể
sợ chúng ta. Và đó là cái sợ căn bản nhứt. Chỉ khi nào kẻ thù bắt đầu
sợ, ta mới có thể thành công.

- Dạ, đó là vấn đề mà tôi được hiểu ít nhiều. Oppenheim uống cạn ly nước
nho và đi vài bước. Phía dưới, mặt hồ phản chiếu trông như một cái mộc
xanh khổng lồ từ trên trời rơi xuống. Oppeheim đột nhiên đổi giọng:

- Cậu có định làm gì chưa... Tính ở đâu...

- Dạ, Ba Lê.

- Tại sao lại Balê...

- Dạ, cũng không biết. Người ta bảo ở đó dễ sống hơn.

- Sao không ở lại Thụy Sĩ...

Kern gần như nín thở:

- Thưa ông Cố vấn, nếu được tôi xin ở lại ngay. Xin ông Cố vấn vui lòng
giúp cho, hoặc một lời gởi gấm hay một chỗ làm… Nếu ông Cố vấn…

Oppeheim ngắt ngang:

- Tôi không làm được gì đâu. Hoàn toàn không được. Tôi chỉ muốn biết cậu
định làm gì thôi, một câu hỏi thông thường. Tôi phải giữ hoàn toàn
trung lập về chính trị. Không được dính vào đâu cả.

- Thưa ông Cố Vấn, đây không phải là vấn đề chánh trị.

- Thời đại nầy thì cái gì cũng là chánh trị. Thụy Sĩ là nước tiếp nhận tôi. Không, đừng đặt vấn đề đó… Cậu cần gì nữa không...

Kern lấy từ trong túi ra một vài món hàng:

- Thưa, không biết ông Cố vấn có cần những thứ nầy không...

- Đâu, để coi… Nước hoa... Thứ nầy không cần thiết. Xà bông... Được. Cho tôi một bánh. Khoan…

Ông ta cho tay vào túi, mò mẫn rồi lấy ra hai quan đặt lên bàn:

- Đây, như vậy là quá đủ rồi, chớ gì...

- Vâng giá chỉ có một quan.

Oppenheim làm một cử chỉ hào hiệp:

- Thôi cứ giữ luôn đi. Nhưng đừng nói lại với ai cả. Họ tới đây làm nhộn hoài.

- Thưa ông Cố vấn, chính vì vậy mà tôi không muốn nhận số tiền hơn giá cục xà bông.

Oppenheim trố mắt:

- Vậy à... Cũng được. Vả lại, đó cũng là một nguyên tắc chính đáng. Không nhận quà tặng. Tôi cũng thích như thế.

Buổi chiều, Kern bán thêm được hai cục xà bông, một cái lược và hai hộp
kẹp tóc. Tất cả được ba quan. Sau cùng, anh tạt vào một nhà buôn vải.

Bà Grunberg, chủ tiệm vải, tóc rối bù, nhìn anh qua cái kính một tròng:

- Chắc không phải là nghề của cậu...

Kern hơi ngượng:

- Dạ. Tôi không được khéo lắm.

- Cậu có muốn làm việc không... Tôi đang liệt kê lại tất cả. Chắc phải
mất một hai ba ngày. Mỗi ngày bảy quan và ăn uống đầy đủ. Nếu muốn, tám
giờ mai cậu tới đây.

- Dạ, cám ơn bà, nhưng…

- Tôi biết lắm. Tôi không phải là người hay bép xép. Bán cho tôi một cục xà bông đi. Ba quan đủ không...

- Dạ, dư quá nhiều.

- Không có gì gọi là dư, cũng không có gì cho là đủ. Can đảm lên.

Kern nhận tiền:

- Nếu có can đảm không thôi cũng khó sống. Điều đáng khích lệ là thỉnh thoảng gặp được một dịp may.

- Vậy ngay bây giờ cậu sắp xếp giúp tôi hàng hoá lại, mỗi giờ một quan. Như thế đã phải là một dịp may chưa...

- Dạ, đúng là một dịp may. Nhưng không nên đánh giá quá thấp sự may mắn. Tham vọng càng nhỏ thì cơ hội gặp may càng nhiều.

- Chắc cậu đã học được điều đó trong khi đi đường...

- Thưa, không phải trong lúc đi đường mà là trong lúc nghỉ ngơi. Mỗi
ngày chúng tôi học thêm được một điều mới lạ, ngay cả ở những ông cố vấn
thương mãi.

- Cậu có biết chút gì về hàng vải không...

- Tôi chỉ mới biết loại vải xấu. Tôi đã học may luôn hai tháng trong một nhà tù. Coi bộ cũng không mấy khó.

- Biết thêm được cái gì cũng tốt cả. Chính tôi có lúc học nhổ răng. Cách
nay hai chục năm rồi. Biết đâu, thỉnh thoảng nó lại chẳng đem lại cho
tôi một vài niềm vui.

Kern làm việc tới mười hai giờ đêm và lãnh được năm quan, ngoài bữa ăn
tối. Khoản tiền nầy cộng với mấy quan kia vừa đủ cho anh sống được hai
ngày và khiến anh hài lòng hơn là được ông Cố vấn Oppenheim bố thí cho
một quan.

Ruth đợiKern trong một nhà trọ mà Binder đã cho địa chỉ. Người ta có thể
trú ngụ ở đây vài hôm không cần khai báo. Trước mặt Ruth, bên một cái
bàn là một người đàn ông đứng tuổi, gầy ốm.

Vừa thấy Kern, Ruth đứng lên:

- Anh vừa về đúng lúc, em đang sợ…

- Sợ gì... Thường thường hễ khi mình quá lo thì lại chẳng có gì xẩy ra. Chỉ khi nào mình không cảm thấy gì cả thì tai nạn tới.

Người ngồi cùng bàn với Ruth cười:

- Đó là ngụy biện chớ không phải là triết lý.

Kern quay về phía ông ta. Người đàn ông lạ vẫn cười:

- Lại đây uống một ly rượu chát với tôi. Cô Holland sẽ cho cậu biết tôi
không có gì nguy hiểm cả. Tôi là Vogt, trước đây làm giảng sư ở Đức. Xin
mời cậu uống chai cuối cùng của tôi.

Kern nhìn sững ông ta:

- Sao lại là chai cuối cùng...

- Bởi vì sáng tôi sẽ đi ở trọ một thời gian. Mệt mỏi lắm rồi, tôi cần tĩnh dưỡng.

Kern không hiểu sao cả:

- Ở trọ là thế nào... Chớ ở đây…

- Tôi bảo là ở trọ, người ta bảo là ở tù. Sáng mai, tôi sẽ tới Cảnh sát
khai là tôi đã lưu trú bất hợp pháp tai Thụy Sĩ hai tháng nay. Tôi sẽ bị
giam vài tuần vì tôi đã bị trục xuất hai lần rồi.

- Ông có cần tiền không... Hôm nay tôi gặp vận tốt…

Vogt từ chối:

- Cám ơn, tôi còn mười quan đủ trả tiền rượu và ở trọ đêm nay. Tôi chỉ
mệt mỏi thôi, và chỉ có vào tù mình mới được nghỉ ngơi. Năm mươi hai
tuổi, sức khoẻ không còn… chẳng đủ sức lặn lội và trốn tránh mãi… Lại
đây, mời cô cậu ngồi với tôi. Sống cô độc mãi cũng buồn.

Ông ta rót rượu vào ly:

- Đây là loại neufchatel, chát mà trong như nước băng.

Kern vẫn còn thừ người:

- Nhưng ở tù…

Vogt cười:

- Nhà tù Lucerne tốt lắm. Tôi biết rồi nên tôi tự cho mình có quyền chọn
nơi bị giam. Chỉ sợ họ không chịu giam. Rủi gặp mấy ông Toà quá nhân
đạo, họ đuổi trở lại biên giới thì khổ thân. Chúng tôi là dân miền Đông
Địa Trung Hải nên còn rắc rối hơn người Do Thái. Chúng tôi không có cộng
đồng giáo hội nên không có người giúp đỡ… Mà thôi, nhắc làm gì mấy
chuyện đó…

Ông ta nâng ly:

- Chúng mình hãy uống cho cái gì được gọi là đẹp trên trái đất…

Cả ba người cùng cụng ly. Kern vừa uống vừa nhớ tới ly nước nho của lão Oppenheim. Vogt tươi cười:

- Tôi tưởng chỉ có một mình, không bao giờ lại có cô cậu chung vui. Trời mùa thu trong mát lạ!

Họ ngồi như thế khá lâu. Vài con **** đêm thỉnh thoảng lại quăng mình
chạm mạnh vào bóng đèn nóng cháy. Vogt ngã dựa lưng ghế, mắt nhìn ra xa,
trầm lặng. Nhìn khuôn mặt xương và ánh mắt trong suốt của Vogt, cả Kern
và Ruth đều có cảm tưởng như con người trước mắt họ đã sống trọn một
thế kỷ và đang bình thản giã từ cuộc sống.

Vogt bỗng lên tiếng như nói với chính mình:

- Sự yên tĩnh… đứa con trầm lặng của lòng khoan dung đã biến mất trong
thời đại nầy rồi. Nó đòi hỏi quá nhiều đức tánh: sự hiểu biết, sự suy
tư, tánh khiêm nhượng và lòng nhẫn nại trước điều bất khả kháng. Tất cả
những đức tánh đó đã chạy trốn trước chủ nghĩa của đồn trại… Những kẻ
muốn cải tiến thế giới đã làm hỏng thế giới đi… Và những nhà độc tài
không bao giờ tìm thấy sự yên tĩnh và niềm vui.

Kern phụ hoạ:

- Kể cả những kẻ gánh chịu ách độc tài cũng thế.

Vogt chậm chạp gật đầu và uống một ngụm rượu trong. Ông ta chỉ xuống mặt
hồ đang soi bóng mảnh trăng non, giữa các ngọn núi bao quanh trông
giống một cốc rượu khổng lồ:

- Đó là những vật mà không ai có thể áp dụng được chế độ độc tài. Những
con ****, những tàng cây cũng vậy… Holderlin và Nietzsche. Một người ca
ngợi sự sống đặc biệt trong lành, và người kia tưởng tượng tới những vũ
khúc thần tiên, sảng khoái. Cả hai đều chết vì điên, dường như tạo hoá
đã ấn định sẵn giới hạn cho con người.

Kern chua chát chen vào:

- Nhưng các nhà độc tài không chết vì điên.

- Hẳn là không – Vogt vừa cười vừa đứng lên – nhưng họ cũng không phải là những kẻ bình thường.

- Ông vẫn giữ ý định tới Cảnh sát ngày mai...

- Không còn cách nào hơn. Giã biệt các bạn nhỏ và cám ơn đã chịu khó ngồi chung. Tôi phải ra bờ hồ chơi khoảng một giờ.

Ông ta đi từng bước chậm. Con đường vắng còn dội lại những tiếng chân, xa lần, xa lần.

Kern nhìn Ruth. Nàng cười.

- Em có sợ không...

Ruth lắc đầu. Kern nói giọng tin tưởng:

- Trường hợp chúng mình thì khác. Mình còn trẻ. Nhứt định mình sẽ vượt qua.


Hai ngày sau. Binder từ Zurich tới, bình thản, bảnh bao và đầy tự tin. Hắn hỏi Kern:

- Mạnh khoẻ chớ... Làm ăn ra sao...

Kern thuật lại cuộc gặp gỡ với ông Cố vấn Oppenhim. Binder chăm chú
nghe. Hắn cười khi nghe Kern kể tới đoạn nhờ lão ta can thiệp cho mình ở
lại.

- Đó là cái lầm lẫn chính yếu của anh. Tôi chưa hề thấy một người nào hèn cỡ lão ta. Rồi anh xem, tôi đã có cách trừng phạt lão…

Binder đi cho tới tối mới trở về với tờ giấy bạc hai chục quan trên tay. Kern nhìn nhận:

- Tôi phục anh sát đất.

Binder nhún vai:

- Cũng chẳng đẹp đẽ gì. Đồng tiền cướp mất của con người nhiều tánh tốt.

- Nhưng không có tiền thì lại cũng vậy.

- Rất đúng nhưng rất ít. Tôi đã làm cho lão ta điếng hồn về các tin tức
khủng khiếp ở Đức. Lão cho là vì sợ. Lão muốn bảo đảm số mạng bằng cách
ra điều mình có lương tâm. Tôi có ghi chú cho anh không...

- Không. Anh ghi: Chỉ cho khi nào bị bắt buộc.

- Cũng vậy thôi. Biết đâu rồi một ngày nào đó, lão Oppenheim sẽ chẳng là bạn đồng hành của mình trong cuộc sống lưu vong.

Kern cười:

- Dễ gì. Lão ta luôn luôn có lối thoát. À, anh đến Lucerne có chuyện gì không...

- Zurich dạo nầy quá nguy hiểm. Cảnh sát theo bén gót – mặt hắn thoáng
nét buồn – với lại tôi cũng cần tới để xem có thư từ Đức gởi sang không.

- Của cha mẹ...

- Của mẹ tôi.

Kern lặng thinh. Anh nhớ tới mẹ mình. Thỉnh thoảng anh vẫn viết thơ cho
mẹ. Nhưng anh không nhận được thơ trả lời vì không thể ở một chỗ.

Đột nhiên, Binder hỏi:

- Anh có thích bánh ngọt không...

- Thích chớ. Anh có hả...

- Có. Đợi tôi một chút.

Binder trở lại với một hộp giấy bên trong có một cái bánh lớn trong giấy bóng.

- Mới vừa gởi tới hôm nay.

Kern bảo:

- Anh ăn đi chớ. Của mẹ anh làm cho anh mà.

- Phải, chính mẹ tôi làm. Nhưng cũng chính vì lẽ đó mà tôi không thề ăn, dầu chỉ ăn một miếng nhỏ.

- Tôi không hiểu gì cả. Nếu mẹ tôi gởi bánh cho tôi thì phải biết! Tôi ăn nhín cả tháng. Cứ mỗi đêm tôi ăn một miếng.

Binder nhăn mặt:

- Anh không hiểu. Mẹ tôi không phải gởi cho tôi mà là cho em tôi.

Kern tròn mắt:

- Nhưng anh bảo là em anh đã chết rồi mà.

- Đúng vậy. Nhưng mẹ tôi không biết.

- Sao vậy...

- Tôi không dám nói cho mẹ tôi biết. Bà có thể chết nếu được tin. Bà
thương nó nhứt nhà, tôi thì chẳng được một góc nào cả. Chính là được
cưng thái quá mà nó không chịu đựng nổi cảnh khổ.

Với một cử chỉ tức tối, hắn ném tờ bạc cửa Oppenheim xuống đất.

Kern lượm lên để trên bàn. Binder ngồi xuống ghế, rút thuốc ra hút. Hắn lấy ra một bức thơ:

- Đây là bức thơ gởi tới cùng một lượt với hộp bánh. Anh đọc đi rồi mới thấy tình cảnh bi đát của tôi.

Thơ viết trên giấy màu xanh lợt. Nét chữ tròn và nghiên như chữ của một
cô gái: ” Leopold của mẹ. Mẹ được thơ con hôm qua. Mẹ vui mừng đến nỗi
phải ngồi yên một lúc lâu mới bình tĩnh lại. Mẹ xé bao thơ ra và đọc.
Tim mẹ dạo nầy càng yếu hơn. Mẹ rất vui khi được tin con tìm được việc
làm. Đừng lo quá về chuyện chẳng kiếm được bao nhiêu. Nếu con tận tuỵ
với công việc thì đâu sẽ vào đó. Có thể sau nầy con phải tiếp tục học.
Leopold nhớ nhắc nhở George. Nó nóng nẩy và vô tâm. Có con bên nó, mẹ
cũng yên lòng phần nào. Sáng nay mẹ làm thứ bánh mà con ưa nhứt. Mẹ muốn
làm bánh vương miện Francfort nhưng sợ đi đường nó sẽ hư mất. Hễ lúc
nào rảnh thì viết cho mẹ. Sao không gởi cho mẹ một tấm ảnh của con... Mẹ
mong gia đình mình sớm đoàn tụ. Mẹ của con. Nhớ nói mẹ thăm thằng
George”.

Kern để lá thơ xuống. Anh không dám trả lời thẳng cho Binder.

Nhìn Kern với đôi mắt thần, Binder hỏi:

- Anh thấy chưa... Làm sao tôi có được tấm ảnh của nó...

- Mẹ anh có nhận được thơ của Leopold không...

Binder lắc đầu:

- Nó tự ngắm vào đầu năm ngoái. Từ đó, tôi phải viết thế nó, cách vài
tuần một lần. Tôi bắt chước nét chữ của em tôi, phải cố nhái cho thật
giống. Khổ quá!

Hắn nhìn Kern như van lơn:

- Anh thấy thế nào...

- Đành như vậy.

- Sáu mươi tuổi. Sáu mươi tuổi và bịnh đau tim. Chắc mẹ tôi chẳng còn
sống được bao lâu nữa. Tôi sẽ cố làm cho mẹ tôi không biết gì cả. Tự
sát, mẹ tôi không thể nào chấp nhận một chuyện như thế.

Binder đứng lên:

- Bây giờ, tôi lại phải viết thơ thay nó. Nhưng còn tấm hình, biết làm sao đây...

Hắn lấy bức thư trên bàn:

- Anh ăn bánh dùm tôi đi. Nếu anh không thích thì cho Ruth. Đừng nói gì với cô ấy cả.

Kern do dự:

- Bánh ngon quá. Tôi chỉ muốn được ăn một miếng nhỏ…

Binder lấy con dao nhỏ trong túi ra, xẻ lấy một mảnh nhỏ bỏ vào bao thơ. Mặt hắn sa sầm:

- Anh biết không, thằng em tôi không bao giờ nó thương mẹ tôi cả. Nhưng tôi… kể cũng lạ, phải không...

Hắn đi sang phòng bên kia.

Mười một giờ đêm, Ruth và Kern còn ngồi trong sân. Binder từ trên đi
xuống. Hắn đã lấy lại vẻ nhàn nhã, sang trọng như chẳng có gì xẩy ra.
Hắn nói với Kern:

- Mình đi dạo một lúc đi. Tôi không tài nào ngủ được mà cũng sợ phải sống một mình. Đằng nầy có chỗ giải khát hoàn toàn an ninh.

Kern nhìn Ruth:

- Em có mệt không...

Ruth lắc đầu. Binder nài ép:

- Vậy thì cùng đi cho tôi vui. Chỉ mất một tiếng đồng hồ thôi.

Hắn đưa hai người tới một quán nước có khiêu vũ. Ruth nhìn thoáng qua, hơi ngại:

- Sang quá, không hợp với bọn mình.

Binder trả lời giọng chua chát:

- Họ lập quán là để tiếp đón bọn lảng du như bọn mình đó chớ. Nhìn kỹ
thì cũng chẳng có gì đáng gọi là sang. Chỉ được một việc là Cảnh sát
không để ý tới. Và rượu cognac không đắt như mấy nơi kia. Nhạc ở đây khá
lắm. Vào đi, tôi mời mà.

Họ gọi thức uống sau khi tìm ra chỗ ngồi. Binder nâng ly:

- Buồn làm quái gì! Hãy vui lên! Cuộc sống quá ngắn ngủi và sự kiện vui hay buồn cũng chẳng thay đổi được gì.

Kern cũng nâng ly:

- Đúng lắm. Mình cứ tưởng như là công dân Thụy Sĩ, có nhà ở Zurich và tới Lucerne du ngoạn.

Ruth cười với Kern. Bindere nói thêm vào:

- Hay cứ kể như là những nhà du lịch sang giàu.

Hắn uống cạn ly và gọi ly khác rồi hỏi Kern:

- Thêm một ly nữa chớ...

- Từ từ thôi.

- Uống đi. Để hăng hái mà. Một ly nữa. Kern.

- Cũng được.

Cả ba ngồi nhìn người ta khiêu vũ. Khách lớn khách đều cùng một trạc
tuổi với họ. Thế nhưng, họ ngồi đó như những đứa trẻ lạc loài. Có lẽ đó
không phải là nỗi buồn mất quê hương mà chỉ là thiếu nguồn hứng khởi
trước một cuộc sống chẳng hy vọng, không tương lai. Kern chợt nhận ra
cơn buồn trầm mặc đó. Anh nhắc nhở:

- Cái gì vậy... Mình mới bảo là phải vui mà.

Anh hỏi Ruth:

- Em thấy thế nào...

- Tạm được.

Căn phòng tối sầm lại. Aùnh đèn rọi nhiều màu quét trên sàn nhảy, rồi một nữ vũ công xinh xắn bắt đầu nhảy múa. Binder vỗ tay:

- Tuyệt diệu.

- Nhạc hay quá.

Họ bắt đầu cảm thấy yêu sống nhưng trong niềm vui bất chợt đó có pha lẫn mùi vị như bụi như tro.

Binder hỏi:

- Sao hai người không nhảy...

- Em chắc không biết nhảy đâu.

- Anh cũng không rành, vậy càng tiện.

Ruth ngập ngừng vài phút rồi cùng Kern ra sàn nhảy. Aùnh đèn nhiều màu chiếu qua những cặp khiêu vũ.

Cả hai thoạt đầu hơi ngượng nghịu nhưng lần đầu lấy lại bình tĩnh, nhất là khi thấy chẳng ai để ý tới mình. Kern thì thào:

- Được nhảy với em là cả một thích thú. Mỗi ngày anh khám phá thêm nhiều
mới lạ về em. Em đã thay đổi và làm đẹp được những gì ở chung quanh.

Bàn tay của Ruth áp sát vào tai Kern. Họ bước chập theo nhạc điệu. Aùnh
đèn màu đổ lên người họ từng đợt sáng óng ánh và chỉ trong khoảnh khắc
họ quên tất cả.

Nhạc ngừng, họ trở về bàn. Kern nhìn Ruth. Mắt nàng ngời chiếu niềm vui.
Kern nghĩ “ước gì người ta có thể sống như ý muốn”. Ý nghĩ đó bỗng
khiến Kern chán chường hơn.

Binder thúc nhẹ khuỷu tay vào người Kern:

- Lão ta kìa!

Lão Cố vấn thương mãi Oppenheim đang đi ra cửa. Tới chỗ bàn họ, lão ta dừng sững lại, trố mắt:

- Lý thú chưa! Những con người có học!

Không cần ai trả lời.

- Thì ra người ta làm phước để được trả ơn trước mắt!

Binder thản nhiên đáp:

- Một chút khuây lãng đôi lúc còn cần thiết hơn một bữa ăn, thưa ngài Cố vấn.

- Toàn là nói cho trôi. Những người trẻ không nên có mặt những nơi nầy.

- Và cũng không nên dấn bước đường xa.

Kern nói với Ruth:

- Để anh nói rõ cho nghe. Cái ông đứng trước chúng ta đây là ngài Cố vấn
thương mãi Oppenheim. Ông ấy mua của anh một cục xà bông và anh lời
được bốn mươi xu.

Oppenheim sửng sốt nhìn Kern. Lão nói lầm thầm gì đó rồi bỏ đi. Ruth đứng dậy:

- Coi chừng ông ta kêu Cảnh sát. Mình nên về là hơn.

- Lão ta hèn lắm. Đừng lo. Lão sợ dây dưa tới lão.

- Nhưng mình cũng nên về cho rồi.

- Cũng được.

Binder trả tiền. Cả ba trở về nhà trọ. Gần tới nhà ga, hai người đang từ đầu kia đi lại. Binder bảo nhỏ:

- Coi chừng nhân viên an ninh. Cứ tự nhiên.

Kern huýt sáo nho nhỏ, nắm lấy tay Ruth và bước khoan thai. Anh cảm thấy
là Ruth muốn bước mau. Anh kéo tay Ruth lại và cười cợt làm ra vẻ ăn
chơi.

Hai người kia đi ngược ngang qua. Một người đội nón nỉ, miệng ngậm xì
gà… một người là cựu giảng sư Vogt. Ông ta nhận ra họ và nháy mắt ra
hiệu với tất cả sầu thảm.

Được một lúc, Kern quay nhìn lại. Họ đã khuất bóng.

Binder luôn luôn thành thạo:

- Họ đi về hướng Bâle. Xe chạy về biên giới đúng mười hai giờ mười lăm.

Kern thở dài:

- Rủi cho ông ta là gặp phải một ông tòa quá nhân đạo.

Họ tiếp tục đi. Ruth rùng mình:

- Tình trạng ở đây đột nhiên trở nên đe doạ.

Binder bảo:

- Sang Pháp đi. Tới Ba Lê. Ở một thành phố lớn dễ chịu hơn.

- Sao anh không đi...

- Tôi không biết một tiếng Pháp nào cả. Ở Thụy Sĩ tôi quen hơn. Vả lại…

Hắn không nói nữa. Cả ba đi trong im lặng. Một đợt gió từ mặt hồ đổ lên. Trên đầu họ, vòm trời màu xám thép, bao la và xa lạ.
Về Đầu Trang Go down
https://duonghoalac-hoabinh.forumvi.com
Admin
Admin
Admin
Admin

Tổng số bài gửi : 1754
Điểm : 6794
Ngày tham gia : 22/12/2010
Tuổi : 38
Đến từ : Hà Nội
Level: 38 Kinh nghiệm: 1754%
Sinh mệnh: 1754/100
Pháp lực: 38/100

NGƯỜI ĐIỀU HÀNH
Phù hiệu: Bản du ca cuối cùng - Erich Maria Remarque POLLICE

Bản du ca cuối cùng - Erich Maria Remarque Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Bản du ca cuối cùng - Erich Maria Remarque   Bản du ca cuối cùng - Erich Maria Remarque Icon_minitimeThu Apr 14, 2011 7:50 pm

Chương 13

Kern và Ruth tới Berne. Họ nhà ở trọ Immegrun tìm ra nhờ
địa chỉ của Binder. Đây là loại nhà trọ có thể ở không cần khai báo
trong hai hôm.

Đêm thứ nhì, có tiếng gõ cửa ở phòng Kern. Anh đã thay đồ và sửa soạn
lên giường. Kern dừng sững, bất động… đợi chờ. Rồi không một tiếng động,
anh nhón gót chạy tới cửa sổ. Không có lối thoát vì lầu quá cao. Anh từ
từ quay lại và ra mở cửa.

Một thanh niên khoảng ba mươi tuổi đang đứng đó. Anh ta cao hơn Kern một
cái đầu, mặt bầu bĩnh, mắt xanh ướt, tóc quăn màu vàng hoe ngã trắng.
Anh ta xoay xoay cái nón cũ trên tay:

- Xin lỗi, tôi cũng là dân tị nạn…

Kern nhẹ người tưởng chừng như vừa mọc cánh. Thế là thoát nạn!

- Tên tôi là Binding. Richard Binding. Tôi định đi Zurich nhưng không
còn một xu để ngủ trọ. Tôi không xin tiền mà chỉ xin ông cho tôi được
ngủ nhờ một đêm trên sàn ván.

- Trên sàn ván nầy...

- Vâng. Tôi quen ngủ vậy rồi. Tôi không quấy rầy ông đâu. Luôn ba đêm,
tôi chưa được ngủ. Ông cũng biết, ngủ trên ghế đá thì không tài nào mà
nhắm mắt… Cảnh sát…

- Tôi hiểu, nhưng anh nhìn xem, phòng hẹp thế nầy làm gì có chỗ…

- Dạ, không sao. Tôi ngủ ngồi cũng khá lắm. Chỉ cần yên tĩnh, không lo sợ là ngủ được ngay. Trong góc kia là đủ rồi.

Kern suy nghĩ rồi bảo:

- Mỗi phòng mướn hai quan, tôi có thể giúp cho anh tiền.

Binding đưa tay ngăn lại:

- Không dám. Tôi không dám nhận tiền đâu. Những người ở trọ tại đây, ai
cũng cần từng đồng xu. Vả lại, tôi có hỏi dưới kia, họ bảo không còn
phòng trống.

- Biết đâu sẽ có phòng trống nếu anh có hai quan.

- Dạ không phải vậy. Người chủ bảo là ông ta chẳng tiếc gì với một kẻ đã
từng bị nhốt trong trại tập trung đến hai năm, nhưng chính thật là
không còn phòng trống.

- Sao... Anh ở trại tập trung hai năm...

- Vâng.

Binding kẹp nón giữa hai đầu gối rồi móc túi lấy một mảnh giấy nhầu nát
trao cho Kern. Anh chưa hề thấy giấy phóng thích tù trại tập trung. Anh
đọc tiêu đề, bản văn, tên Richard Binding đánh máy, rồi nhìn con dấu chữ
Vạn.

Kern trả giấy lại cho Binding:

- Thôi, được. Anh cứ ngủ ở đây. Tôi sẽ sang ngủ nhờ phòng của một người bạn rộng hơn.

Binding nhìn sững Kern:

- Dạ như vậy không tiện đâu.

- Anh đừng lo. Cách giải quyết của tôi là ổn thỏa nhứt.

Kern với lấy áo choàng và đôi giày:

- Tôi mang mấy thứ nầy theo để sáng khỏi phải đánh thức anh quá sớm.

Binding ôm lấy hai bàn tay Kern lắp bắp:

- Trời ơi, ông là một thiên thần. Một cứu tinh.

Kern cười:

- Không phải vậy đâu. Giữa những kẻ khốn cùng phải biết giúp đỡ lẫn nhau. Chúc anh ngủ ngon.

Kern đứng lại một chút. Anh muốn xách vali theo vì trong túi ngang còn
bốn chục quan. Nhưng vali đã được khóa và mấy tờ giấy bạc giấu quá kỹ,
không đáng ngại. Kern hơi xấu hổ vì đã nghi ngờ một kẻ vừa thoát khỏi
cảnh ngục tù tàn khốc.

Ruth cùng ở trên một lầu với Kern. Anh gõ cửa hai tiếng nhẹ, mật hiệu giữa hai người. Ruth mở cửa ngay. Nàng cuống quýt hỏi:

- Có chuyện gì, hả... Phải trốn ngay sao...

- Không. Anh cho một gã vừa ở trại tập trung ra mượn phòng để ngủ vì
luôn mấy đêm rồi, anh ta không chợp mắt. Anh có thể ngủ trên ghế dài ở
đây chớ...

Ruth mỉm cười:

- Chiếc ghế dài quá cũ và lung lay, bộ cái giường không đủ rộng cho hai đứa sao...

Kern ôm hôn Ruth:

- Lắm lúc anh hay hỏi những câu quái dị. Tất cả hãy còn quá mới đối với anh.

Phòng của Ruth rộng hơn phòng Kern. Ngoài chiếc ghế dài, đồ đạc trong
phòng cũng như nhau nhưng Kern nhìn thấy nó có vẻ khác lạ hoàn toàn.
Kern nghĩ “Phải chăng vì ở đây có sự hiện diện của những đôi giày nho
nhỏ, chiếc áo blouse và cái váy nâu… Có một cái gì ấm cúng trong phòng,
cái gì đó có lẽ là sự ngăn nắp… cái bóng của những người nội trợ”.

- Ruth, em có nghĩ nếu mình có muốn thành hôn với nhau cũng chẳng làm sao được không... Vấn đề giấy tờ… phiền phức thật!

- Em biết nhưng đối với em đó là vấn đề phụ. Em tự hỏi tại sao chúng mình phải cần tới hai phòng...

Kern cười:

- Có lẽ là tại tinh thần đạo đức của người Thụy Sĩ. Không khai báo thì được nhưng chưa là vợ chồng thì không.

Sáng hôm sau, Kern đợi đến mười giờ mới trở về phòng mình với hảo ý để cho Binding ngủ ngon.

Nhưng căn phòng hoàn toàn trống. Có lẽ Binding đã đi sớm. Kern mở vali
ra. Anh ngạc nhiên vì vali không khóa. Anh nhớ rõ là đã khóa cẩn thận
ngay từ chiều. Dường như các chai dầu thơm cũng không nằm theo thứ lớp.
Anh lục trong túi ngang. Tất cả tiền Thụy Sĩ đều bay biến chỉ còn lại
mười đồng tiền Aùo.

Kern vội vã lục lại tất cả đồ đạc, các túi quần áo. Bốn chục đồng quan
thế là đã đi theo gã lưu manh. “Có thể như thế được sao”. Anh ngồi thừ
người tự hỏi như thế mãi. Cuối cùng anh quyết định không nói để cho Ruth
khỏi thêm buồn.

Soát lại danh sách của Binder cho, Kern ghi một số địa chỉ tại Berne.
Xong xuôi, Kern thồn xà bông, dây giày, kẹp tóc và vài dầu thơm vào túi
rồi xuống lầu.

Tới tầng dưới anh hỏi người chủ nhà trọ:

- Ông có biết người nào tên Richard Binding không...

Người chủ lắc đầu:

- Tôi muốn nói đến anh chàng mới tới đêm qua xin cho ngủ trọ một phòng trống.

- Đêm qua có ai hỏi gì đâu. Vả lại tôi đi tới nửa đêm mới về.

- Vậy à... Ở đây còn phòng nào trống không...

- Còn ba phòng. Cậu đợi người nào tới hả... Cậu có thể lấy phòng số bảy cùng một tầng.

- Cám ơn, có lẽ người tôi đợi sẽ không trở lại.

Buổi trưa, Kern đã kiếm được ba quan. Anh vào một quán ăn bình dân ăn
một khúc bánh mì thịt nguội để rồi sẽ tiếp tục đi bán dạo buổi chiều.

Kern đứng ăn ngon lành ở quầy. Thình lình khúc bánh mì chừng như suýt
vuột khỏi tay. Anh vừa thoáng thấy tên bất lương Binding ở một bàn trong
góc.

Anh nuốt mau đoạn bánh mì còn lại rồi từ từ tới bàn hắn. Binding ngồi
một mình, chống hai khuỷ tay lên mặt bàn, trước mặt là một dĩa sườn non
có su đỏ và khoai tây. Hắn ăn hùng hục, bất cả mọi người chung quanh.

Lúc Kern đứng sát bên, hắn ngước mắt lên, và toét miệng cười:

- A, ông bạn, mạnh khoẻ không...

Kern nói rít qua kẽ rằng:

- Bốn chục quan của tôi đâu...

Bining cố nuốt trôi một miếng thịt quá lớn:

- Đáng tiếc, thật đáng tiếc.

- Trả số tiền còn lại cho tôi, thế là kể như xong.

Tên bất lương uống một ngụm bia và chùi miệng:

- Dầu sao thì cũng kể như xong rồi. Nếu không thì bạn định làm gì...

Kern sững sờ nhìn hắn. Trong cơn giận, anh đã không nghĩ tới chuyện
chẳng làm gì được gã. Nếu anh tới Cảnh sát, người ta sẽ hỏi giấy tờ và
chính anh sẽ bị bắt trước tiên rồi bị trục xuất.

Mắt Kern chiếu tia căm giận. Binding trề môi:

- Không nổi đâu. Tôi là một võ sĩ có hạng lại nặng hơn bạn tới hai mươi
ký. Vả lại, nếu bạn làm rùm, Cảnh sát sẽ chiếu cố bạn ngay.

Giận quá, Kern toan làm liều nhưng anh nghĩ tới Ruth:

- Ít ra anh cũng phải trả lại hai chục quan. Tôi đang cần. Không phải
cho tôi mà là cho một người khác vì tiền đó là của người ta.

Tên bất lương lắc đầu:

- Tôi cũng cần. Vả lại, bạn mua bài học cũng không mấy đắt: đừng nên tin cậy ai bao giờ.

- Giấy tờ của anh là giả phải không...

- Không đâu. Tôi có ở trại tập trung thật – hắn cười – bị kết tội trộm của một ông Quận trưởng.

Hắn thò tay toan lấy miếng sườn còn lại nhưng Kern nhanh hơn, sớt mất:

- Muốn làm gì cứ làm đi.

Tên bất lương cười:

- Tôi không được lẹ tay. Cũng không sao. Vừa đủ no. Nếu bạn cần cứ gọi thêm một dĩa su. Và nếu muốn uống bia, tôi bao cho.

Kern không đáp. Anh muốn đập vào đầu vào mặt hắn với bất cứ vật gì vớ
được. Anh quay người lại, mang miếng sườn theo ra quầy xin giấy gói. Cô
gái hầu bàn tò mò nhìn Kern. Không biết nghĩ sao, cô ta lấy hai trái dưa
chuột ngâm chua đưa cho anh. Kern cám ơn. Anh vừa đi vừa nghĩ “đây là
phần ăn của Ruth, mẹ kiếp, tới bốn chục quan”.

Tới cửa, anh quay đầu nhìn lại. Binding đang ngó theo. Kern nhổ xuống đất. Tên bất lương cười, đưa hai ngón tay lên.

Rời khỏi Berne, họ gặp mưa. Ruth và Kern không còn đủ tiền để đi xe lửa
tới chặng kế tiếp. Kể ra thì họ cũng còn chút ít tiền tiết kiệm nhưng
không muốn động tới trước khi vào đất Pháp. Một chiếc xe cho họ đi nhờ
được năm mươi cây số. Họ lại tiếp tục đi bộ. Kern chỉ dám bán các món
lặt vặt ở các làng hẻo lánh. Họ không thể ngủ đêm một nơi đến hai lần.
Sáng sớm, họ lên đường và phải đợi tới tối, lúc các trụ sở Cảnh sát đóng
cửa mới vào thị trấn. Danh sách các nhà từ tâm của Binding cho không đá
động gì tới vùng nầy. Nơi đây toàn là thị trấn nhỏ. Tới gần Morat, cả
hai ngủ trong một vựa lúa trống. Đêm đó, mưa như thác đổ. Mái vựa quá cũ
nên khi giựt mình thức giấc, Kern và Ruth đã ướt ngoi. Họ cố làm cho đồ
đạc khô lại nhưng không dám nhóm lửa. Cả hai phải mất một lúc lâu mới
tìm ra được một chỗ trong góc không bị dột. Họ ngủ ôm chầm lấy nhau để
khỏi bị cóng. Nhưng rồi họ lại thức giấc vì lạnh. Gần sáng, cả hai lại
phải lên đường.

Kern vừa đi vừa khích lệ:

- Đi một chút là ấm người ngay. Khoảng một giờ nữa thế nào cũng gặp một quán cà phê.

Ruth nhìn trời:

- Phải chi có mặt trời sớm hơn, đồ đạc mình sẽ mau khô.

Nhưng trời vẫn lạnh dài, thỉnh thoảng chen vài cơn gió lốc. Mưa giăng mờ
trên đồng lúa. Đây là ngày lập đông đầu tiên, mây xuống thấp. Buổi
chiều lại mưa to. Ruth và Kern vào trú trong một giáo đường nho nhỏ.
Từng đợt chớp lóe sáng qua các khung cửa kính màu làm hiện rõ những pho
tượng Thánh cầm trong tay những châm ngôn hòa bình trên trời cao và
trong lòng người.

Kern thấy Ruth rùng mình.

- Có lạnh lắm không...

- Không, thường thôi.

- Đứng lên. Mình đi qua đi lại dễ chịu hơn. Anh sợ em bị cảm lạnh.

- Không phải bị cảm đâu. Em mệt nên muốn ngồi.

- Quần áo ướt mà ngồi một chỗ thì nguy lắm. Nên nhớ là mình đang ngồi trên đá, còn lạnh hơn.

Ruth đứng lên. Kern dìu nàng đi tới đi lui giữa lòng giáo đường hoang vắng. Kern bảo:

- Còn chín cây số nữa là tới Morat. Chẳng biết có chỗ ở hay không.

- Em còn dư sức đi chín cây số.

Kern làu bàu một mình.

- Anh nói gì...

- Anh nguyền rủa một gã tên Binding.

Ruth nắm tay Kern:

- Đừng nghĩ tới nhiều. Có lẽ trời đã hết mưa.

Họ ra ngoài. Mưa vẫn chưa tạnh hẳn. Nhưng phía trên dãy núi đang có một
cầu vồng lộng lẫy. Phía sau khu rừng, xuyên qua kẽ hở thấy được mặt
trời. Ruth làm ra vẻ hăng hái:

- Đi anh. Trời tốt lắm rồi.

Tối đến, họ tới một trại chăn cừu. Người chăn, một nông dân thầm lặng,
tuổi cao, đang ngồi trước cửa. Hai con chó nằm bên chân ông ta chạy ùa
ra, sủa lớn. Ông ta lấy ống điếu ra khỏi miệng, huýt sáo gọi chúng nằm
im. Kern nghiêng đầu chào:

- Chúng tôi đi lỡ đường gặp mưa nên ướt hết cả, xin ông vui lòng cho tạm trú lại đây một đêm.

Người chăn cừu nhìn Kern một lúc rồi bảo:

- Trên gác chỉ còn có chỗ chứa cỏ khô thôi.

- Dạ, được như vậy là tốt lắm rồi.

Ông lão nhìn Kern như dò xét:

- Cậu đưa hộp thuốc và hộp quẹt cho tôi, trên đó còn nhiều rơm lắm.

Ken trao cả cho ông ta.

- Ở trong có cái thang đi lên. Tôi sẽ khóa bên ngoài khi mấy người lên xong. Tôi phải trở về làng, sáng mai tới mở ra.

- Dạ, cám ơn.

Trên gác cỏ hãy còn có đôi chút ánh sáng và có vẻ ấm cúng. Một lát sau,
người dân quê trở lại mang cho Ruth và Kern một ít nho, phô mai cừu và
bánh mì đen.

- Tôi khóa cửa đây. Chúc ngủ ngon.

- Dạ, cám ơn nhiều.

Họ thay đồ ướt, đặt trên rơm, mặc quần áo khác vào và bắt đầu ăn. Cả hai đều đói.

- Hay quá, phải không em...

- Tuyệt trần.

Ruth vừa đáp vừa nép mình vào Kern.

Phía dưới, người chăn cừa đã khóa cửa. Vựa cỏ có một cửa sổ tròn. Trời
bắt đầu trong ra, phản chiếu ánh sáng ở mặt hồ. Người dân quê chậm chạp
băng qua các đồng cỏ với bước chân đều đặn của kẻ sống sát với thiên
nhiên. Ngoài ông ta ra chẳng còn một ai.

Ông lão đi một mình qua những cánh đồng dường như gánh trọn cả bầu trời trên đôi vai tối ám.

Sáng hôm sau, ông lão chăn cừu tới mở cửa.

Kern đi xuống. Ruth vẫn còn ngủ. Mặt nàng đỏ ửng và hơi thở dồn dập. Kern giúp ông lão đem đàn cừu ra. Anh hỏi:

- Thưa, chúng tôi xin ở lại một ngày nữa. Tôi sẽ giúp tất cả những gì ông cần.

- Tôi không cần người làm phụ nhưng các người cứ ở.

- Dạ, cám ơn.

Kern hỏi xem có người Đức nào ở vùng nầy không. Ông lão cho biết có một vài người và chỉ chỗ của họ.

Buổi chiều Kern ra đi. Anh tìm gặp ngôi nhà đầu tiên không mấy không mấy
khó. Đó là một biệt thự trắng toát nằm giữa một khu vườn nhỏ. Một thiếu
phụ xinh đẹp ra mở cửa. Bà ta đưa Kern vào thay vì bắt đợi, Kern tự bảo
“Một điềm lành”. Anh lễ phép:

- Tôi xin gặp ông hoặc bà Ammers.

- Cậu đợi một chút.

Một lúc sau, thiếu phụ trở ra, đưa Kern vào phòng khách toàn những bàn
ghế bằng gỗ đào hoa tâm mới. Ken suýt trợt chân vì sàn gỗ bóng như
gương.

Ông Ammers bước ra, người nhỏ thó, râu tỉa nhọn dưới càm. Ông ta lộ vẻ
quan tâm tới Kern. Trong khi đó, Kern đã chuẩn bị sẵn hai mẩu chuyện có
thể kể ra như có thật.

Ammers dịu dàng lắng nghe cho tới hết.

- Thế là cậu đi tịn nạn mà không có giấy thông hành và giấy cư trú... Cậu có xà bông và nước hoa để bán kiếm lời...

- Dạ.

- Được. Vợ tôi sẽ ra mua giúp cậu một ít.

Ammers đi ra. Vài phút sau bà Ammers vào. Bà ta không có nét gì đặc biệt
và hơi buồn cười với da mặt sậm như nấu nhừ và cặp mắt lợt lạt vô hồn.
Bằng một giọng óng chuốt, bà ta hỏi:

- Cậu bán gì đâu...

Kern bày mấy món hàng ra. Bà Ammers cầm từng món lên ngắm nghía như chưa
bao giờ từng thấy. Bà ngửi xà bông, sờ vào lông bàn chải đánh răng và
bắt đầu hỏi giá. Bà đi ra gọi người em gái vào.

Cả hai chị em giống nhau như khuôn. Chẳng biết Ammers đã áp dụng loại kỷ
luật nào trong gia đình mà cô em cũng héo úa như bà chị. Thỉnh thoảng
hai người lại liếc nhìn ra cửa. Kern nhận thấy dường như họ không đi tới
được một quyết định nào nên sốt ruột gom đồ lại.

- Nếu quý bà còn cần suy nghĩ, sáng mai tôi sẽ trở lại.

Bà Ammers đột nhiên lộ vẻ sợ sệt:

- Mời cậu ở lại dùng một tách cà phê.

Lâu lắm rồi, Kern chưa uống cà phê. Anh dè dặt đáp:

- Thưa, nếu có sẵn…

- Mau lắm, chỉ một phút là có ngay.

Bà ta đi ra khá mau. Cô em còn ở lại. Kern nói cho có nói:

- Một tách cà phê lúc này là quý lắm.

Cô em vợ của Ammers phát ra một tiếng cười gần giống như tiếng gà cục
tác và bỗng nhiên tiếng cục tác đó như nghẹn lại. Kern ngạc nhiên nhìn
cô ta.

Bà Ammers quay vào với tách cà phê bốc khói:

- Cậu cứ tự nhiên, cà phê còn nóng lắm.

Nhưng Kern không kịp còn uống cà phê. Cửa mở ra và Ammers gọn gàng đi vào, theo sau là một Cảnh binh.

Ammers chỉ Kern:

- Thưa ông, xin ông làm phận sự. Đây là một gã không Tổ quốc, không giấy thông hành bị đuổi ra khỏi Đức quốc.

Kern như chết cứng.

Người Cảnh binh ngắm Kern từ đầu xuống chân:

- Thôi, đi chớ!

Kern có cảm tưởng tim ngừng đập, đầu óc trống không. Anh đã tiên liệu
tất cả ngoại trừ trường hợp nầy. Chầm chậm và máy móc, anh thu gọn các
món hàng cho vào túi. Anh đứng lên uể oải và cay đắng:

- Cà phê và lòng tốt hiếm có của các người… chỉ là để lưu giữ tôi lại…

Anh siết chặt hai nắm tay bước tới phía Ammers khiến lão ta lùi lại. Kern lắc đầu:

- Đừng sợ. Tôi không đụng tới người ông đâu. Tôi chỉ muốn nguyền rủa
thôi. Tôi nguyền rủa ông, vợ và con ông. Rằng tất cả tai họa trên đời
nầy sẽ giáng xuống đầu gia đình ông! Con cái ông sẽ chống lại và bỏ ông
trong nghèo đói, khổ ải!

Ammers mặt tái xanh. Chòm râu dê rung động:

- Xin ông Cảnh binh bảo vệ tôi.

Người Cảnh binh lạnh như đồng:

- Y không chửi mắng mà. Y chỉ nguyền rủa thôi. Nếu y mắng ông là “quân
điểm chỉ đê tiện” thì đó mới là mạ lỵ do tiếng đê tiện mà ra.

Ammers rên rỉ:

- Xin ông làm phận sự.

Người Cảnh binh vẫn lạnh lùng:

- Ông Ammers, ông đừng ra lệnh cho tôi. Xin để thượng cấp tôi làm việc
đó. Ông tố cáo một người, tôi tới ngay, và cứ để mặc tôi làm việc –
người Cảnh binh quay sang Kern – theo tôi.

Cửa biệt thự đóng sầm lại sau lưng người Cảnh binh và Kern. Có một cái
gì khiến đầu óc anh không dám làm việc. Ruth… anh chỉ vừa nghĩ tới đó
rồi thôi. Người Cảnh binh phá tan sự im lặng với giọng nói thật tự
nhiên:

- Đôi khi những con cừu non tự dấn thân vào mồm chó sói. Ông bạn nhỏ
không biết lão là ai sao... Mật viên Đức quốc xã đó! Lão đã tố cáo đủ
mọi hạng người.

- Ghê vậy sao!

- Chớ sao! Người ta bảo đó là chuyện xui xẻo.

Kern lặng thinh một lúc. Lúc nói anh nghe giọng mình điếc câm:

- Tôi còn một người bệnh đang đợi mua thuốc về…

Người Cảnh binh nhìn trước ngó sau rồi nhún vai:

- Biết làm sao hơn. Vả lại chuyện đó không liện hệ gì tới tôi. Bổn phận
của tôi là đưa ông bạn về bót – ông ta lại nhìn quanh. Con đường không
một bóng người – tôi không bao giờ khuyên ông bạn nhỏ bỏ chạy. Tôi cho
biết trước là chân tôi bị phong thấp, nếu ông bạn chạy tôi sẽ bắn chớ
không đủ sức đuổi theo.

Người Cảnh binh ngưng nói, nhìn Kern và nói tiếp:

- Có thể là cậu sẽ chạy thoát khi tới một đoạn đường nào đó có nhiều ngõ
ngách. Tới đó thì tôi không thể bắn được. Muốn chắc ăn, tôi phải còng
cậu trước đã.

Linh tính báo cho Kern sắp có dịp may. Anh nhìn như dán mắt vào người Cảnh binh. Ông ta vẫn đi như chẳng có gì xảy ra.

- Ông bạn biết không, có những việc mà khi làm người ta không hài lòng một chút nào.

Kern cảm thấy tay mình toát mồ hôi:

- Thưa ông, người bạn tôi sẽ chết nếu tôi không về kịp. Xin ông tha tôi
một lần. Chúng tôi định sang Pháp chớ có muốn ở lại Thụy Sĩ đâu.

Người Cảnh binh vẫn lạnh:

- Tôi không có thẩm quyền. Ông bạn chỉ có một cách là bỏ chạy đúng lúc –
ông ta dừng bước – chẳng hạn như chạy vọt tới trước rồi quẹo trái. Vậy
là tôi không thể bắn kịp. Hay là để tôi còng trước cho chắc.

Ông ta mò mẫm ở túi quần và thắt lưng:

- Uûa! Mình để cái còng đâu kìa...

Ông ta quay lưng về phía Kern, lục lại các túi.

Kern nói lớn:

- Cám ơn.

Và anh phóng chạy. Anh chạy như điên. Tới góc đường, anh vừa ngoảnh nhìn
lại vừa tiếp tục chạy. Người Cảnh binh vẫn đứng chỗ cũ, tay chống nạnh,
mắt nhìn theo Kern với cái cười mở rộng.

Một trong những đêm sau, Kern thức giấc giữa khuya. Anh nghe Ruth thở
dồn và ngắn. Trán nàng nóng ướt mồ hôi. Kern lo quá. Giọng ngái ngủ và
trẻ con, Ruth đòi uống nước. Kern đưa một ca nước, Ruth uống hết một
hơi.

- Em nóng lắm hả...

- Nóng khủng khiếp. Cổ khô đắng. Chắc tại rơm.

- Hy vọng không phải bị cảm.

- Chắc không phải. Đau lúc nầy là hỏng cả. Chắc không phải cảm đâu.

Nàng dựa đầu vào vai Kern và ngủ thiếp lại.

Kern ngồi yên. Anh muốn có ánh sáng để xem Ruth ra sao. Anh nghĩ rằng
nàng sốt nặng, nhưng không có đèn bấm. Anh nhìn đồng hồ. Vòng tròn với
hai cây kim dạ quang đối với anh là một bộ máy địa ngục đang chậm chạp
bò lên dốc thời gian. Đàn cừu bên dưới chen lấn nhau và thỉnh thoảng lại
kêu lên buồn thảm.

Đêm đi lần về sáng. Ruth lại tỉnh giấc:

- Đưa nước cho em, Ludwig.

Kern đưa ca nước:

- Em bị sốt nặng lắm. Cứ nằm đây đợi anh trong vòng một tiếng đồng hồ. Anh ra phố mua một ít thuốc chống sốt…

Người chăn cừu tới trại. Kern thuật lại vụ Ruth sốt nặng. Người chăn cừu đăm chiêu:

- Nên đưa vào nhà thương. Đừng để nằm đây.

- Để chờ tới trưa xem sao.

Mặc dầu vẫn sợ gặp lại viên Cảnh binh hay một người nào đó trong nhà
Ammers nhưng Kern cứ phải ra thị trấn, vào một hiệu thuốc mượn một ống
nhiệt kế với tiền thế chân. Ngoài ra, anh còn mua một ống astospirine và
gấp rút đi như bay trở về.

Ruth sốt tới 38 độ 5. Nàng uống hai viên thuốc. Kern trùm kín người yêu lại trong hai lớp áo. Tới trưa 39 độ.

Người chăn cừu gãi đầu:

- Phải đưa vào nhà thương mới được.

Giọng Ruth yếu ớt và khàn đặc:

- Tôi không đi nhà thương đâu. Tới mai là khoẻ lại.

- Khó lắm. Cô cần phải nằm trên giường chớ không phải nằm trên rơm.

- Được mà, rơm ấm lắm. Xin ông cứ cho tôi ở đây.

Người chăn cừu xuống gác. Kern đi theo. Ông ta hỏi:

- Tại sao cô ta không chịu đi nhà thương...

- Bởi vì vậy là chúng tôi sẽ xa nhau.

- Có gì đâu. Cậu cứ chờ ở đây.

- Dạ không phải vậy. Vào nhà thương là lòi ra ngay vụ không có giấy tờ.
Sau đó, người ta sẽ áp giải ra biên giới, làm sao tôi biết được chỗ
nào...

- Cậu có làm gì sai quấy không...

- Dạ không. Chúng tôi không có giấy thông hành vì xin chẳng ai cho, thế thôi.

- Tôi muốn hỏi là cậu có mắc một tội gì như trộm cướp, lường gạt hay một tội gì giống như vậy không...

- Hoàn toàn không.

- Vậy mà vẫn bị truy nã như một tội nhân...

- Dạ.

Người chăn cừu nhổ xuống đất:

- Hiểu hết nổi. Bọn ngu dốt như tôi không làm sao hiểu nổi.

- Nhưng tôi thì hiểu lắm.

- Cô bạn của cậu có thể bị sưng phổi, cậu có định gì chưa...

Kern hốt hoảng:

- Sưng phổi sao... Như vậy thì nguy quá.

- Tôi nói với cậu mà.

- Biết đâu không phải là cúm.

- Nóng nhiều như vậy phải là bác sĩ mới biết.

- Vậy tôi phải gọi bác sĩ tới.

- Tới đây...

- Hy vọng sẽ có người vui lòng. Tôi có địa chỉ người Do Thái.

Kern trở ra thị trấn. Anh tới quán mua hai điếu thuốc lá để coi nhờ quyển niên giám.

Anh tìm thấy địa chỉ của bác sĩ Rudolf Beer và vội vã tới nơi. Kern phải
đợi mất một giờ. Trong khi chờ anh lật qua mấy tạp chí để đỡ sốt ruột.
Anh hết sức ngạc nhiên khi biết có những trận đấu quần vợt, những buổi
tiếp tân và những phụ nữ gần như khoả thân trên các bãi biển Florida
trong khi anh ngồi đây bất lực trước cơn sốt nguy cập của người yêu.

Cuối cùng, bác sĩ ra. Ông ta còn trẻ. Chăm chú nghe Kern nói xong bác sĩ Beer cho một ít y cụ vào cặp rồi lấy nón:

- Tôi có xe ngoài kia. Mình đi như thế cho mau.

Kern nuốt nước miệng:

- Không thể đi bộ được sao, bác sĩ... Đi xe sẽ tốn kém thêm mà chúng tôi còn chẳng bao nhiêu tiền.

- Đừng ngại. Mình tính sau.

Tới nơi, Beer xem mạch cho Ruth ngay. Nàng lấm lét nhìn Kern, lo sợ bị đưa vào bịnh viện.

Bác sĩ Beer đứng lên:

- Cô nên vào bịnh viện. Phổi bên phải yếu. Bị cúm có thể đi tới sưng phổi. Tôi sẽ đưa đi.

- Không, tôi không vào bịnh viện đâu. Chúng tôi không có phương tiện.

- Khoan nói chuyện tiền bạc. Phải đi ngay mới kịp.

Ruth nhìn Kern cầu cứu. Kern bảo:

- Chờ anh một chút. Anh nói chuyện với bác sĩ.

Bác sĩ Beer sửa soạn đi:

- Nửa giờ tôi nữa tôi trở lại. có đồ gì đắp ấm không...

- Chúng tôi chỉ có bao nhiêu đây thôi.

- Được, để tôi mang tới.

Kern xuống gác với Beer. Anh hỏi:

- Có cần thiết không, bác sĩ...

- Cần lắm. Không thể nằm trên rơm. Tôi sẽ đưa cô ấy vào bịnh viện càng sớm càng tốt.

Kern buồn rầu:

- Trong trường hợp nầy tôi phải nói rõ hơn để bác sĩ thông cảm.

Beer chú ý nghe rồi nói:

- Nghĩa là anh sợ không thể tới thăm cô ấy...

- Nếu chỉ trong vài ngày thì không có gì đáng nói. Nhưng nếu bác sĩ cho phép, tôi sẽ hỏi thăm tin tức qua bác sĩ.

- Tôi hiểu rồi. Anh có thể tới tôi bất cứ lúc nào.

- Cám ơn bác sĩ. Tình trạng của bạn gái tôi có gì đáng ngại không...

- Rất đáng ngại nếu không vào bịnh viện.

Kern trở lên gác cỏ. Anh lo sợ quá. Khuôn mặt trắng dã với hai hố mắt đen ngòm nhìn anh:

- Ludwig, em biết anh sẽ nói gì.

Kern lờ đờ:

- Không còn cách gì hơn. Nhưng mình vẫn may mắn gặp được một bác sĩ quá tốt. Anh tin là em sẽ được chữa trị miễn phí.

Ruth nhìn thẳng phía trước mắt:

- Chắc sẽ được. Nhưng trong thời gian đó anh sẽ ở đâu... Làm sao mình gặp nhau... Anh tới bịnh viện, họ sẽ bắt anh…

Kern ngồi xuống, cầm lấy hai bàn tay nóng hổi của Ruth:

- Mình phải bình tĩnh. Anh đã nghĩ kỹ rồi. Anh sẽ ở lại đây. Ông lão chủ
trại đã cho phép. Anh sẽ không tới bịnh viện ban ngày. Nhưng tới mỗi
đêm, anh sẽ tới đó nhìn lên cửa sổ. Bác sĩ Beer sẽ cho anh biết em nằm
phòng nào.

- Khoảng mấy giờ...

- Chín giờ.

- Tối quá, làm sao anh thấy được em...

- Nhưng ban ngày nguy hiểm lắm.

- Vậy anh đừng tới tốt hơn.

- Không, anh phải tới. Em chuẩn bị đi ngay.

Kern lau mặt cho Ruth với chiếc khăn tay thắm nước. Môi nàng khô cháy.
Nàng áp mặt vào hai bàn tay Kern. Tự nhiên, anh thấy cần phải lo xa:

- Ruth, mình nên nghĩ tới trường hợp bất trắc. Nếu anh không còn ở đây
lúc em đã lành bịnh hoặc nếu em bị trục xuất thì hãy khai thế nào để họ
giải trở về biên giới Genève. Bưu điện trung ương. Nếu anh bị bắt, mình
sẽ gởi địa chỉ cho bác sĩ Beer. Ông ấy sẽ giúp mình liên lạc với nhau.
Ông ấy đã hứa rồi. Phải làm mọi cách đừng để thất lạc nhau.

- Dạ, em biết.

- Đừng lo sợ, Ruth. Anh chỉ hỏi dặn chừng thế thôi. Anh tin chắc em sẽ
ra khỏi nhà thương không bị làm khó dễ. Chừng đó mình lại sẽ đi chung…

- Nhưng nếu cảnh sát biết...

- Họ sẽ đưa em ra biên giới. Anh sẽ đợi em. Sở Bưu Điện Trung Ương Genève.

Kern lấy một ít tiền còn lại trao cho Ruth:

- Em giữ tiền để đi đường. Đừng cho bịnh viện biết.

Bác sĩ Beer đã quay trở lại. kern đỡ Ruth đứng lên:

- Ruth! Can đảm lên! Sở Bưu Điện Trung Ương Genève trong trường hợp bất
trắc. Mỗi đêm, khoảng chín giờ, anh tới phía dưới cửa sổ phòng em.

- Em sẽ ra bên cửa sổ.

- Không, em cứ nằm nghỉ. Không nghe lời, anh không tới đâu. Cười cho anh coi nào!

Bác sĩ Beer gọi vọng lên:

- Xong chưa...

Ruth với hai hàng nước mắt:

- Đừng quên em! Đừng bỏ em…

- Quên... Làm sao quên được... Em là tất cả của anh.

Kern hôn vào đôi môi khô cháy. Bác sĩ Beer thò đầu vào:

- Thôi, đi cho kịp.

Hai người khiêng Ruth ra xe. Kern hỏi Beer:

- Tối nay tôi có thể đến bác sĩ để hỏi thăm tin tức không...

- Được chớ. Muốn đến lúc nào cũng được.

Kern nhìn theo cho đến khi xe chạy khuất. Thân anh như bị chôn cứng một
chỗ nhưng hồn anh như đang bị cuốn hút trong đám bụi mù sau xe.

Tám giờ, anh tới bác sĩ Beer, được biết là Ruth bị sốt nhiều hơn đôi
chút nhưng chẳng có gì đáng ngại. Dường như chỉ là chứng sưng phổi nhẹ.

- Thưa, chừng bao lâu thì khỏi...

- Mười lăm hôm, cộng thêm một tuần tĩnh dưỡng.

- Dạ, còn tiền bạc... Chúng tôi chẳng có gì.

Beer cười:

- Tiền bịnh viện sẽ có một tổ chức từ thiện nào đó đóng góp.

Kern ngập ngừng:

- Nhưng… còn công của bác sĩ...

Beer lại cười:

- Hãy giữ mấy đồng quan của anh trong túi. Tôi chưa cần tiền. Mai trở lại để biết thêm.

Ông ta đứng lên. Kern hỏi mau:

- Thưa, nàng nằm phòng nào... Lầu mấy...

Beer đặt một ngón tay lên sóng mũi:

- Để coi… phòng 35, lầu hai.

- Dạ, cửa sổ thứ mấy...

Beer nheo mắt:

- Dường như cửa sổ thứ hai bắt đầu từ bên phải. Nhưng bây giờ có tới cũng vô ích. Cô ấy ngủ rồi.

- Dạ, tôi không nghĩ là sẽ tới.

Beer cười:

- Biết đâu…

Kern hỏi đường tới bịnh viện. Anh tới nơi lúc chín giờ kém mười lăm. Cửa
sổ thứ nhì bên phải qua không có ánh đèn. Anh đứng đợi. Mười lăm phút
kéo dài… Thình lình ánh đèn từ đó hắt ra. Kern bồn chồn nhìn dán mắt vào
khung ánh sáng. Anh đã từng nghe nói tới thần giao cách cảm, bây giờ
anh cố tập trung tinh thần để chuyển tới Ruth những ý nghĩ cầu chúc nàng
mau lành bịnh. Anh nắm tay, gồng cứng các bắp thịt, nhón chân lên như
sắp nhảy, đồng thời nói thì thầm về phía khung cửa sổ thứ hai: “Hãy bình
phục, Ruth! Bình phục ngay! Anh yêu em!

Vuông cửa bỗng hơi tối lại. Kern nhìn thấy xuất hiện một bóng người.
Ruth đưa tay ra hiệu. Kern vẫy tay trả lời nhưng cũng ngay lúc đó anh
nhận ra là Ruth không thể thấy mình. Cuống quít, anh nhìn quanh tìm một
nơi nào đó có khe ánh sáng hoặc một ngọn đèn đường để tới đứng. Chẳng có
gì cả. Đột nhiên, anh sực nhớ mình còn một bao diêm cùng hai điếu thuốc
mới mua buổi sáng. Anh đánh cháy một que diêm và đưa lên cao.

Cái bóng trên lầu nhà thương lại đưa tay ra hiệu. Kern quẹt tiếp nhiều
diêm nữa để soi mặt mình cho rõ. Ruth vẫy tay cuồng nhiệt. Kern ra dấu
bảo nàng đi nghỉ. Ruth lắc đầu. Kern lại soi mặt mình để tỏ ý cương
quyết nhưng Ruth vẫn không nghe. Anh nghĩ là chỉ khi nào mình đi khỏi
thì Ruth mới chịu quay về giường. Đi được vài bước, Kern quẹt tất cả
những diêm còn lại, tung cả lên không. Các que diêm rơi xuống, lửa cháy
chập chờn rồi tắt lịm.
Về Đầu Trang Go down
https://duonghoalac-hoabinh.forumvi.com
Admin
Admin
Admin
Admin

Tổng số bài gửi : 1754
Điểm : 6794
Ngày tham gia : 22/12/2010
Tuổi : 38
Đến từ : Hà Nội
Level: 38 Kinh nghiệm: 1754%
Sinh mệnh: 1754/100
Pháp lực: 38/100

NGƯỜI ĐIỀU HÀNH
Phù hiệu: Bản du ca cuối cùng - Erich Maria Remarque POLLICE

Bản du ca cuối cùng - Erich Maria Remarque Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Bản du ca cuối cùng - Erich Maria Remarque   Bản du ca cuối cùng - Erich Maria Remarque Icon_minitimeThu Apr 14, 2011 7:51 pm

Chương 14

Kern ném những que diêm cuối cùng lên không. Một bàn tay chụp vào vai anh:

- Làm gì đây...

Kern giựt mình quay lại. Trước mặt anh là một Cảnh binh mặc sắc phục. Anh lắp bắp:

- Có làm gì đâu. Tôi chỉ đùa… thế thôi.

Người Cảnh binh nhìn sắc mặt Kern. Anh nhìn mau lên vuông cửa. Ruth
không còn ở đó. Nếu còn, chắc nàng cũng chẳng thấy được gì vì trời tối.

Kern cố cười thật vô tư:

- Xin lỗi, tôi chỉ đùa chút chơi, chẳng hại gì ai. Chỉ vài cây quẹt. Tôi
định đốt thuốc nhưng tắt mãi, tôi mới lấy sáu cây quẹt một lượt suýt
cháy tay.

Anh vừa cười vừa vẫy vẫy bàn tay phải và định tiếp tục đi. Nhưng người Cảnh binh nắm tay anh lại:

- Khoan. Anh không phải là dân Thụy Sĩ, hả...

- Tại sao không...

- Thấy là biết ngay. Tại sao chối...

- Tôi có chối đâu. Tôi muốn biết tại sao ông nhận ra...

Giọng người Cảnh binh trở nên nghi ngờ:

- Có thể là…

Ông bật đèn bấm lên:

- Anh có biết ông Ammers...

Kern cố giữ giọng thản nhiên:

- Ammers nào... Tôi không quen với ai tên Ammers cả.

- Anh ở đâu...

- Mới tới hồi sáng nầy, đang định tìm khách sạn. Ông có biết khách sạn nào giá phòng vừa phải không...

- Khoan đã. Anh hãy theo tôi rồi nói chuyện sau. Ông Ammers có tố giác một người hoàn toàn giống anh.

Kern theo người Cảnh binh. Anh tự mắng đã không đề phòng cẩn thận. Tám
ngày đã trôi qua êm thắm. Có lẽ đó là lý do khiến anh lơ đãng. Nhìn
quanh, Kern cố tìm một cơ hội tháo chạy. Nhưng con đường tới bót quá
gần.

Người Cảnh binh đã để cho anh chạy hôm trước đang ngồi ở bàn giấy. Kern
thấy vững lòng. Viên chức vừa dẫn Kern về, hỏi người kia:

- Phải người này không...

Người ngồi bàn giấy nhìn lướt qua Kern:

- Không nhớ rõ. Bữa đó trời tối lắm.

- Vậy để tôi gọi điện cho Ammers.

Ông ta bước ra. Người Cảnh binh ngồi bàn giấy bảo nhỏ với Kern:

- Ông bạn nhò ơi, tôi tưởng ông bạn đã đi lâu rồi. Thế nầy là hỏng cả. Chính Ammers đích thân tới đây tố cáo.

Kern hỏi mau:

- Chẳng còn cách nào chạy trốn sao...

- Vô phương. Con đường duy nhất là chạy ra phòng ngoài nhưng ở đó đã có
người yêu quý của ông bạn đang điện thoại. Thằng cha đó không tha ai
đâu, hắn đang tìm mọi cách để lên lương.

- Vậy là cùng đường rồi!

- Biết làm sao! Nhứt là ông bạn đã đào tẩu một lần rồi. Tôi bắt buộc phải al2m phúc trình vì lão Ammers luôn theo dõi.

Kern lùi một bước, kêu lên:

- Jésus!

- Ông bạn có kêu luôn hai tiếng Jésus Christ thì lấn nầy cũng đành chịu. Kẹt ít lắm là vài tuần.

Vài phút sau, Ammers tới. Lão ta thở hổn hển vì đã chạy để tới mau. Vừa thở, lão vừa lắp bắp:

- Đúng rồi. Đúng y là nó… Chính thằng vô lại nầy.

Kern trừng mắt, Ammers ngó tránh ra:

- Lần nầy thì chắc nó không thoát nổi.

Người bắt Kern nói giọng tự tin:

- Thoát làm sao được.

Kern không nhịn nổi, nhìn thẳng vào mắt Kern:

- Ông có biết là ông bị ung thư gan không...

Kern tự biết là không thể hành hung lão già điểm chỉ viên nầy nhưng anh cố tâm phải làm một cái gì đó để lão ta hoảng vía.

Ammers há hốc miệng:

- Sao... Mầy nói gì...

- Ung thư gan! Tôi là y sĩ, chỉ nhìn qua là biết ngay. Không bao lâu
nữa, ông sẽ bị những cơn đau kinh khủng rồi chết thảm khốc. Không còn
cách gì cứu chữa đâu.

Ammers cuống cuồng:

- Ông Cảnh binh, yêu cầu ông bảo vệ!

Kern vẫn một giọng đều đều:

- Ông nên làm di chúc đi. Toàn thể các bộ phận trong người ông sắp rã nát rồi.

Ammers hơ hãi nhìn quanh:

- Ông Cảnh binh, xin ông chận đứng sự mạ lỵ!

Người Cảnh binh nhìn ông ta, ánh mắt cười cợt:

- Có gì là mạ lỵ đâu. Đó chỉ là những nhận định về y học.

Ammers la lớn:

- Tôi yêu cầu ghi vào hồ sơ.

Kern chỉ ngón tay vào người ông ta khiến Ammers lùi lại như nhảy tránh một con rắn:

- Chỉ nhìn là đủ biết. Màu da sạm đen như chì, chen lẫn với những mảng
vàng vọt là triệu chứng ung thư gan. Bây giờ chỉ còn có cách là cầu
nguyện cho linh hồn…

Ammers dậm chân, kêu thét. Kern không buông tha:

- Lá gan sẽ từ từ rã ra. Thoạt tiên, ít người biết tới. Nhưng khi triệu
chứng lộ ra thì vô phương cứu chữa. Ung thư gan có nghĩa là chết từ từ
và chết thảm khốc.

Ammers dường như kiệt sức, không la ó nữa. Tự nhiên lão ta đưa tay sờ vào chỗ lá gan.

Người Cảnh binh bắt Kern, lên tiếng:

- Thôi đủ rồi. Ngồi xuống đó và trả lời các câu hỏi. Anh đến Thụy Sĩ hồi nào...

Hai hôm sau, Kern bị đưa ra tòa địa phương. Ông Chánh án, người to béo,
mặt tròn, có vẻ phúc hậu nhưng không giúp gì được cho Kern. Luật lệ đã
được ghi chép quá rõ ràng.

- Tại sao anh không khai báo sau khi đã vượt biên giới bất hợp pháp...

Kern đáp xuôi xị:

- Vì làm như thế, tôi sẽ bị trục xuất ngay.

- Nhưng đó là luật lệ.

- Rồi, qua biên giới bên kia tôi đi khai để khỏi phạm luật. Và người ta
lại giải trả tôi về Thụy Sĩ đêm sau. Cứ đi tới đi lui mãi giữa hai đồn
biên giới, tôi sẽ lăn ra chết vì đói khát.

Ông Chánh án nhún vai:

- Tôi không thể giúp anh được gì cả. Bản án tối thiểu là mười lăm ngày
tù. Đó là luật pháp. Chúng tôi có bổn phận bảo vệ xứ sở bị tràn ngập bởi
làm sóng người tị nạn.

- Thưa, tôi hiểu.

Ông Chánh án nhìn hồ sơ:

- Tất cả những gì tôi có thể làm được là chuyển lên Tòa trên với đề nghị anh chỉ bị giam chớ không phải bị tù.

- Cám ơn ông Chánh án. Đối với tôi thì hai thứ cũng như nhau. Tôi không còn một chút tự ái nào về vấn đề đó nữa.

Ông Chánh án vội giải thích:

- Không thể coi như nhau được. Bị giam thì lý lịch tư pháp anh vẫn trắng còn bị tù thì có ghi vào. Có lẽ anh không biết.

Kern nhìn con người tố bụng nầy một lúc lâu rồi đáp:

- Lý lịch tư pháp và quyền công dân có ích lợi gì cho những người như
tôi đâu, thưa ông Chánh án. Chúng tôi chỉ là cái bóng, hồn ma. Chúng tôi
được hay bị coi là đã chết trên giấy tờ.

Ông Chánh án im lặng khá lâu. Cuối cùng, ông ta bảo:

- Đằng nào thì cũng phải tìm cách để có những thứ giấy tờ cá nhân nào đó. Có thể tới xin ở Tòa Lãnh sự Đức.

- Thưa, cách nay một năm, một Tòa án Tiệp Khắc đã có làm như thế nhưng
bị từ chối. Đối với nước Đức, chúng tôi không còn tồn tại. Phần còn lại
của thế giới cũng thế, nếu không người ta cũng luôn luôn theo dõi chúng
tôi.

Ông Chánh án lắc đầu:

- Hội Quốc Liên không giúp gì cho các người sao... Các người có tới hàng
vạn, bằng cách nầy hay cách khác phải nhìn nhận sự hiện diện của chừng
ấy con người chớ.

- Từ nhiều năm nay, Hội Quốc Liên không ngớt bàn cãi vần đề cấp thẻ căn
cước cho chúng tôi. Nhưng nước nầy đổ trách nhiệm lên lưng nước kia. Có
lẽ còn kéo dài nhiều năm nữa.

Ông Chánh án bỗng như quên mất ngôn ngữ hằng ngày:

- Trời ơi! Gì mà rắc rối dữ vậy! Làm sao đây...

- Thưa, tôi cũng không hiểu. Điều quan trọng nhứt đối với tôi là muốn biết việc gì xảy ra hiện thời.

Ông Chánh án vuốt mặt:

- Tôi có một đứa con trai cũng trạc tuổi anh. Nghĩ tới việc nó có thể bị người ta tróc nã chỉ vì đã trót được sanh ra…

Kern buồn rầu:

- Thưa, tôi cũng có một người cha…

Anh nhìn ra cửa sổ. Aùng nắng mùa thu hiền hòa ngả trên tàng cây táo. Bân ngoài đó là tự do. Bên ngoài đó đang có Ruth.

- Tôi muốn hỏi anh một chuyện. Đây không phải là một câu hỏi chánh thức. Anh có còn tin tưởng vào một điêu gì đó không...

- Thưa có, tôi tin ở lòng ích kỷ, sự bội bạc, lời nói dối và tánh hèn nhát.

- Tôi đang lo như thế.

- Nhưng cũng chưa hết. Tôi còn tin ở lòng tốt, tình bằng hữu, tình yêu
và lòng tương trợ. Tôi đã biết được những điều đó hơn những người sống
bình thường.

Ông Chánh án đứng lên, đi vòng qua ghế, tới trước Kern:

- Hay lắm. Thật sung sướng khi được nghe như vậy. Thiệt tình tôi không biết giúp anh ra sao.

- Thưa, cám ơn. Tôi hiểu lắm. Xin cứ đưa tôi vào tù.

- Không. Tôi cho anh được tạm giam và gởi đề nghị lên cấp trên.

- Nếu vấn đề còn kéo dài, xin cho tôi được ở tù ngay.

- Không sao. Tôi sẽ trực tiếp lo vụ nầy.

Ông Chánh án lấy trong túi ra một cái bóp dầy cộm:

- Rất tiếc là tôi không còn cách nào giúp đỡ khác hơn – Ông ta rút một tờ giấy bạc – Thật chẳng còn cách nào hơn.

Kern nhận tiền:

- Xin cám ơn ông Chánh án.

Và anh nghĩ tiếp ngay “ Hai mươi quan! May quá! Thế là Ruth đã có tiền để đi tới biên giới. ”

Anh không dám viết cho Ruth vì sợ lộ tông tích nàng.

Đêm đầu tiên, anh trằn trọc cho tới sáng. Anh nhìn thấy Ruth mê man
trong cơn sốt và giựt mình thức giấc khi nằm mơ thấy đi chôn nàng. Anh
ngồi dậy, hai tay ôm gối. Anh không muốn mất tự tin nhưng nỗi chán
chường vẫn cứ mạnh hơn. Anh nghĩ, đêm tối thường kéo lôi sự sầu thảm.
Nhưng sáng ra, tất cả sẽ biến đổi đi.

Đứng lên, anh đi đi lại lại trong phòng. Anh thở từ từ, hít vô thật sâu
và thở ra thật dài. Anh tự nhủ, phải luôn luôn khỏe mạnh. Anh tập các
động tác thể dục. Nhớ lại đem bị nhốt ở bót cảnh sát tại Vienne với anh
chành sinh viên tóc vàng dạy mình học võ, anh chợt thấy vui vui. Rồi anh
nhớ tới con người không bao giờ sờn chí: Steiner.

Kern bắt đầu nhún nhảy và thoi đấm vào không khí với kẻ thù tưởng tượng
là lão Ammers. Anh nhìn thấy chòm râu dê của lão ta, anh đấm vào mặt, bổ
vào tai, móc cái càm. Cuối cùng anh tung quả đấm toàn lực vào chớn thủy
khiến lão ta ngã lăn ra. Anh dựng gã lên đánh mãi, đánh mãi và sau chót
móc cú một cú vào gan…

Trời bắt đầu sáng. Mệt lả, Kern lăn ra ngủ. Anh đã chiến thắng cái bóng thảm của đêm.

Hai ngày sau, bác sĩ Beer vào phòng giam. Kern nhảy dựng lên:

- Ruth thế nào...

- Khá lắm. Qua khỏi cơn nguy.

Kern thở phào:

- Sao bác sĩ biết tôi ở đây...

- Dễ quá. Anh không tới nữa tức là anh ở đây.

- Aø… Nhưng Ruth biết chưa...

- Biết. Đêm qua không thấy anh chơi trò thần trộm lửa Prométhée nữa, cô
ấy cuống cuồng lên tìm mọi cách liên lạc với tôi. Khoảng một giờ sau là
chúng tôi đã biết anh ở đâu rồi. Trò chơi lửa gì mà kỳ quặc vậy.

Kern cười ngượng ngịu:

- Đôi khi mình tưởng là quá khôn nhưng sự thật thì quá dại. Tôi bị tạm
giam mười lăm ngày. Ruth có thể hết bệnh trong thời gian đó không...

- Có thể hết nhưng chưa đi xa được. Theo tôi thì nên để nằm bịnh viện càng lâu càng tốt.

Kern suy nghĩ kỹ:

- Được. Vậy là tôi sẽ đợi ở Genève.

Beer lấy ra một bức thơ. Kern vồ lấy, toan đọc ngay nhưng rồi lại cho vào túi.

- Cứ đọc đi. Tôi chờ.

- Tôi thích để dành… đọc sau.

- Vậy là tôi trở lại bịnh viện bây giờ. Anh có cần viết gì cho cô ấy không...

Beer rút viết trao cho Kern cùng với một mảnh giấy.

- Cám ơn. Cám ơn bác sĩ.

Kern viết ngay cho Ruth biết là anh vẫn khỏe mạnh và mong nàng cố tịnh
dưỡng mau bình phục. Nếu anh bị trục xuất trước khi Ruth ra bịnh viện
thì anh sẽ đợi nàng ở Genève mỗi ngày vào buổi trưa tại trụ sở Bưu Điện
Trung Ương. Bác sĩ Beer sẽ cho nàng biết rõ hơn.

Kern bỏ tờ giấy bạc hai mươi quan của ông Chánh án cho và dán lại, trao cho Beer.

- Anh vẫn chưa muốn đọc thơ cô ấy...

- Thưa không. Tôi còn cả một ngày để đọc. Chẳng có gì để làm.

Beer nhìn Kern với đôi chút ngạc nhiên.

- Được. Vài hôm nữa tôi trở lại.

- Chắc không, bác sĩ...

Beer cười:

- Chắc chớ. Chi vậy...

- Dạ, để cho biết. Chắc chẳng có gì bất ngờ xảy ra…

Beer vừa đi khỏi là Kern lấy ngay thơ của Ruth ra. Thơ quá nhẹ, chắc chỉ là mảnh giấy con con với đôi dòng viết vội.

Anh đặt lá thơ trên bìa nệm. Kế đó anh tập thể dục và đánh võ. Anh lại
tưởng tượng đang đánh lão Ammers, thỉnh thoảng anh đập vài quả cấm kỵ
vào thân lão ta.

Thấm mệt, Kern nằm nghỉ. Mãi tới gần tối anh mới mở thư ra đọc mấy dòng
đầu. Cứ mỗi giờ anh đọc vài câu. Tới tối, bức thư đã đọc xong. Ruth lo
cho anh, sợ cho anh, gởi đến anh tình yêu và lòng can đảm. Hứng khởi,
Kern lại nhảy dựng lên đánh đập Ammers không tiếc tay. Trận đấu bất cần
quy luật. Kern sử dụng cả tát tai và mấy cú đá. Cuối cùng chòm râu dê
của Ammers bị giựt phăng ra.

Steiner sửa soạn hành trang. Anh ta định đi Pháp. Aùo quốc càng ngày
càng trở nên nguy hiểm. Ngoài ra khu Parter và các gian hành hội chợ của
lão Potzloch cũng sắp sửa dọn dẹp để nghĩ mùa đông.

Potzloch siết tay Steiner:

- Chúng ta đều là những kẻ giang hồ, quá quen với các cuộc chia tay. Rồi lại sẽ gặp nhau ở một góc trời nào đó.

- Đúng vậy. Chúc ông một mùa đông hạnh phúc.

Potzloch nheo mắt đăm chiêu:

- Anh biết không, tất cả đều do thói quen. Khi đã nhìn thấy quá nhiều
người đi và tới, mình đâm ra quen. Thật mà, tất cả rồi cũng trở thành
thói quen thôi. Ngay cả cái mà người ta gọi là sự ngây ngất.

- Và cũng như chiến tranh. Cũng như sự đau khổ và chết chóc. Tôi biết có
một người lần lượt chôn bốn người vợ trong vòng mười năm. Ông ta lấy bà
cợ thứ năm. Bà nầy cũng đang sắp chết. Ông biết tôi đang sắp nói gì
không... Ông ta đang kiếm bà thứ sáu. Cũng là thói quen. Tất cả chỉ trừ
cái chết của chính mình.

Potzloch khoát tay như để xua đuổi cái ý nhgĩ đó đi:

- Nhưng chẳng ai chịu hiểu như vậy. Nếu họ hiểu thì làm gì có chiến tranh. Người nào cũng tin là mình thoát. Có đúng không...

Steiner gật đầu hứng thú:

- Thôi, xin tạm biệt.

- Tạm biệt.

Pozloch phóng nhanh như gió.

Steiner tới căn nhà di động bằng bánh xe. Lá khô gẫy vụn dưới bước chân.
Đêm trải dài, yên tĩnh và vô hồn, trên khu rừng. Tiếng búa vang lên từ
gian hàng bắn bia, một vài ngọn đèn đong đưa trên kỵ mã trường đã tháo
gỡ hơn một nửa.

Steiner tới gặp Lilo để chia tay. Nàng vẫn ở lại Vienne. Giấy tờ nàng
chỉ có hiệu lực trên đất Aùo. Nàng cũng không thể theo Steiner nếu hoàn
cảnh cho phép. Họ chỉ làø một đôi bạn của sự tình cờ mà trạng thái bất
quyết của thời gian đã đưa họ tới gặp nhau. Cả hai đều hiểu như thế.

Lilo đang ở trong gian nhà lăn, lo dọn ăn. Steiner vừa bước vào, nàng quay lại:

- Có thơ của anh.

Steiner lấy tơ, nhìn con dấu:

- Thụy Sĩ. Đúng là của thằng bé chúng mình – hắn xé bao, đọc qua – Ruth vào nhà thương.

- Bịnh gì...

- Sưng phổi. Không nặng lắm. Cả hai ở Morat. Thằng bé ra hiệu bằng ánh
sáng, ban đêm, trước bịnh viện. Chắc tôi sẽ gặp chúng trên đường đi
ngang Thụy Sĩ.

Steiner bỏ thơ vào túi áo trong:

- Hy vọng là chúng nó có cách gặp lại nhau.

- Kern biết mà. Cậu ấy khôn lắm rồi.

- Phải, nhưng mà…

Steiner muốn giải thích điểm khó khăn cho Kern là Ruth sẽ bị đưa tới
biên giới ngay khi ra khỏi bịnh viện. Nhưng sực nhớ đây là đêm cuối cùng
của mình với Lilo, anh không muốn đề cập tới trường hợp trùng phùng của
người khác.

Anh tới cửa sổ nhìn ra. Dưới ánh sáng của những ngọn đèn khí đá, các
công nhân đang tháo gỡ những con thiên nga, hươu cao cổ và ngựa gỗ cho
vào bao. Những con thú giả ấy, con nằm, con đứng, con ngã ngang dường
như một quả bom đã nổ tung và tàn phá khu vực thần tiên đó.

Lilo gọi:

- Xong rồi. Tôi có làm món pirogui cho anh.

Steiner quay lại:

- Pirogui... Với bọn du mục chúng mình thì một bữa ăn chung cũng đủ tạo được không khí gia đình.

- Còn có một thứ khác mà anh không hiểu… Anh không hiểu vì anh không thể khóc được. Đó là nỗi buồn chung.

- Hiểu chớ. Nhưng chúng mình lúc nào cũng buồn đâu, Lilo.

- Không. Anh không hiểu đâu. Hoặc anh dửng dưng, hoặc anh cười hay có được cái mà người ta gọi là cản đảm.

- Nhưng em muốn nói cái gì...

- Cái sợ biểu lộ tình cảm. Sợ phải khóc. Sợ không được làm một người đàn
ông thật sự. Ở Nga, đàn ông cũng khóc nhưng họ vẫn cứ can đảm. Anh thì
chẳng bao giờ khóc.

- Không.

- Vậy anh muốn gì...

- Không hiểu mà cũng không muốn hiểu.

Lilo nhìn sững Steiner:

- Thôi lại ăn. Tôi sẽ gói theo cho anh bánh mì và muối, như ở Nga, và
tôi sẽ cầu nguyện bình an cho anh trước khi lên đường. Có lẽ anh sẽ
cười.

- Không.

Nàng đặt dĩa pirogui lên bàn. Steiner bảo:

- Ngồi cạnh tôi đi, Lilo.

Nàng lắc đầu:

- Đêm nay anh ăn một mình. Tôi đứng hầu anh trọn bữa. Đây là bữa ăn chót của anh bên tôi.

Lilo đứng đó, trao bánh mì, thịt và dưa chua cho Steiner. Nàng nhìn
Steiner ăn và lẳng lặng pha trà. Nàng đi qua đi lại trong gian nhà lăn
với sự mềm mại của loài beo quá quen với một căn chuồng chật hẹp. Bàn
tay thon và rám nắng của nàng thái thịt nhẹ nhàng, mặt trầm lặng vừa
niềm nở, vừa kín đáo. Tự nhiên, Steiner tưởng như đang nhìn một khuôn
mặt ở Thánh kinh.

Anh đứng lên thu dọn hàng trang. Cái túi đeo lưng không còn dùng nữa từ
ngày có được thẻ thông hành dân Aùo. Bây giờ, xách vali, Steiner bước
xuống đặt vali trên đất rồi quay trở lại.

Lilo đang đứng ở bàn ăn. Một tay chống lên bàn, nàng im lặng nhìn vào
khỏang không trước mắt dường như chẳng thấy bất cứ gì. Steiner tới sát
bên:

- Lilo…

Nàng từ từ quay lại. Mắt họ gặp nhau. Steiner thấp giọng:

- Khó đi quá, lilo.

Nàng quàng một tay qua cổ Stiener:

- Anh đi rồi tôi hoàn toàn cô độc.

- Em định đi đâu...

- Chưa biết.

- Em cứ ở lại Aùo. Dầu cho người Đức tới em vẫn an toàn.

- Vâng.

Nàng nhìn thật lâu vào mắt người bạn giang hồ. Mắt nàng sâu thẳm và ngời chiếu.

- Tiếc quá, Lilo.

- Tiếc quá…

- Em có hiểu tại sao không...

- Tôi hiểu và anh cũng hiểu điều gì tôi đã hiểu.

Họ vẫn chưa rời mắt nhau.

- Kể cũng lạ, giữa chúng mình chỉ có một thời gian ngắn. Vậy mà chẳng biết bao nhiêu chuyện đã được dung chứa.

Lilo trả lời, giọng ngọt ngào:

- Tất cả thời gian và tất cả cuộc sống.

Nàng ôm lấy đầu Steiner và nói vài tiếng Nga rồi trao cho anh một khúc bánh mì và một chút muối:

- Đi khỏi đây, anh nên ăn những thứ nầy. Như thế anh sẽ không vất vả tìm món ăn khi ở xứ lạ. Thôi đi đi.

Steiner muốn hôn nàng nhưng lại thôi. Giọng Lilo trở nên thì thầm:

- Anh đi đi…

Steiner đi xuyên qua khu rừng. Được một lúc anh nhìn ngoái lại. Khu hội
chợ chìm trong đêm. Tất cả chỉ là một khối khổng lồ, đen ngòm trong đó
có một vuông cửa xa xa còn ánh sáng và một bóng nhỏ đứng lặng im không
vẫy tay từ giã.
Về Đầu Trang Go down
https://duonghoalac-hoabinh.forumvi.com
Admin
Admin
Admin
Admin

Tổng số bài gửi : 1754
Điểm : 6794
Ngày tham gia : 22/12/2010
Tuổi : 38
Đến từ : Hà Nội
Level: 38 Kinh nghiệm: 1754%
Sinh mệnh: 1754/100
Pháp lực: 38/100

NGƯỜI ĐIỀU HÀNH
Phù hiệu: Bản du ca cuối cùng - Erich Maria Remarque POLLICE

Bản du ca cuối cùng - Erich Maria Remarque Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Bản du ca cuối cùng - Erich Maria Remarque   Bản du ca cuối cùng - Erich Maria Remarque Icon_minitimeThu Apr 14, 2011 7:51 pm

Chương 15

Đúng mười lăm hôm, Kern lại được dẫn ra Tòa án địa phương. Con người to béo với khuôn mặt phúc hậu nói với anh:

- Rất tiếc là tôi phải báo cho anh một tin buồn.

Kern giựt mình. Có lẽ họ kêu án bốn tuần. Cũng không sao nếu trong thời gian đó bác sĩ Beer còn giữ được Ruth ở bệnh viện.

- Bản thỉnh cầu gửi đến cấp trên đã bị bác bỏ. Anh đã ở quá lâu tại Thụy
Sĩ. Ngoài ra còn vụ tháo chạy hôm bị bắt lần đầu tiên. Anh bị kêu án
mười lăm ngày tù.

- Dạ, thêm mười lăm ngày nữa...

- Tất cả mười lăm ngày kể cả thời gian tạm giam.

Kern thở phào nhẹ người:

- Như vậy là tôi được thả hôm nay...

- Phải. Nhưng có điều đáng buồn là anh bị kết án tù.

- Không sao. Tôi sẽ quen đi.

- Tôi chỉ mong lý lịch tư pháp của anh được trắng nhưng không có thẩm quyền.

- Chừng nào thì bị trục xuất...

- Hôm nay, qua Bâle.

- Qua Bâle... Ở Đức...

Kern nhìn vội chung quanh. Anh muốn phóng mình qua cửa sổ và chạy trốn.
Cửa sổ đang mở rộng và căn phòng ông Chánh án nằm ngay tầng dưới. Bên
ngoài, nắng chói chang. Bên ngoài, những cành táo đang lay động, phía
sau đó là một bờ rào thấp có thể dễ dàng nhảy qua…

Ông Chánh án lắc đầu:

- Anh sẽ bị đưa qua Pháp chớ không phải Đức. Bâle vừa là biên giới Đức vừa là biên giới Pháp của chúng tôi.

- Tôi có thể xin được giải trả về Genève phải không...

- Phải. Bâle là nơi gần nhứt. Đó là chỉ thị của cấp trên.

Kern lo ngại:

- Có chắc là người ta sẽ đưa tới biên giới Pháp không...

- Không thể sai chạy.

- Có khi nào những người bị bắt không giấy tờ bị gởi trả về Đức...

- Theo tôi biết thì không. Thỉnh thoảng có một vài vụ nhưng chỉ xảy ra ở các thị trấn biên giới.

- Như vậy, nếu một phụ nữ bị bắt chắc không bao giờ bị giải trả về Đức...

- Không bao giờ. Anh muốn biết để làm gì...

- Thưa, cũng chẳng có gì đặc biệt. Thỉnh thoảng tôi có gặp một vài phụ
nữ trên đường, chẳng có giấy tờ gì cả. Chẳng biết họ sẽ ra sao.

Ông Chánh án đưa cho Kern xem một mảnh giấy:

- Đây, lịnh trục xuất. Anh đã tin là sẽ được giải qua đất Pháp rồi chớ...

Kern liếc mắt qua:

- Vâng.

- Hai giờ nữa sẽ có chuyến xe.

- Nhứt định là tôi sẽ không có quyền đi Genève.

- Nhứt định. Giá vé đã đắt mà những người tị nạn lại tới dồn dập nên ngân quỹ thiệt hại không phải ít.

- Đặt trường hợp là tôi chịu bỏ tiền vé xe...

- Có thể. Anh muốn thế à...

- Thưa không. Tôi chỉ hỏi thế thôi chứ không đủ tiền.

- Nói cho anh biết, đáng lý ra anh phải trả tiền xe đi tới Bâle nhưng
tôi đã gạt vấn đề đó ra – ông ta đứng lên – rán giữ sức khỏe. Chúc anh
được an toàn ở Pháp. Và cầu mong tình thế sẽ thay đổi.

- Cám ơn ông Chánh án. Chúng tôi chỉ còn hy vọng duy nhứt đó thôi, nếu không chắc là đã tự vận từ lâu.

Kern chẳng còn cách nào để liên lạc với Ruth. Đêm qua, Beer có tới thăm
và cho biết Ruth còn phải nằm bệnh viện tám ngày nữa. Anh quyết định sẽ
viết cho Ruth ngay khi tới biên giới Pháp. Anh đã biết điều cần yếu:
Ruth sẽ không bị đuổi trở lại Đức nếu có đủ tiền trả chuyến đi tới
Genève.

Đúng hai giờ sau, một nhân viên an ninh mặc thường phục tới và dẫn anh
ra nhà ga. Đêm qua, Beer có mang tới cho anh chiếc vali còn để lại ở vựa
chứa rơm của ông lão chăn cừu.

Hai người đi qua một quán nhỏ. Có hai người gần cửa sổ vừa hát vừa khiêu vũ, tay người nầy đặt lên vai người kia.

Viên chức Cảnh sát dừng lại. một trong hai người đang hát nhìn ra, hỏi:

- Đi đâu mất vậy Max... anh em chờ quá.

Người áp giải Kern đáp:

- Đang làm phận sự.

Anh chàng có giọng kim nhìn Kern:

- Xui quá vậy! Vậy là ban hòa ca bốn giọng của mình đêm nay kể như hỏng.

- Không sao, tôi sẽ quay lại trong hai mươi phút.

Kern và viên chức Cảnh sát mặc thường phục tiếp tục đi. Kern hỏi:

- Ông không cùng đi với tôi đến biên giới...

- Không. Chúng tôi áp dụng một phương sách mới.

Tới nhà ga, viên Cảnh sát trao Kern cho người trưởng ga kèm theo lịnh trục xuất:

- Đây, tôi hết phận sự rồi – ông ta bỗng trở nên lịch sự khi nói với Kern – chúc cậu thượng lộ bình an.

Người trưởng xa dẫn Kern tới một toa nhỏ ngay trước buồng thắng máy và bảo:

- Lên đây đi.

Toa xe nhỏ hẹp chỉ có một cái ghế gỗ. Kern đẩy vali vào gầm ghế. Người trưởng xa khóa cửa bên ngoài.

- Tới Bâle, sẽ có người mở cửa.

Vài phút sau, đoàn tàu chuyển bánh.

Kern nhìn ra bên ngoài. Trời tối với từng cơn gió mạnh tạo thành một
không khí âm u, xa lạ. Tự nhiên, Kern nghe chán nản tận cùng.

Tại Bâle, một Cảnh sát viên dẫn Kern ra trạm quan thuế. Kern được cho ăn
uống vừa đủ no. Một nhân viên quan thuế theo Kern trên chuyến xe điện
tới Burgfelden. Họ đi trong bóng tối, vượt qua một nghĩa trang Do Thái.
Họ tới một lò gạch rồi từ đó tiến ra đường cái. Được một quãng, nhân
viên áp giải dừng lại:

- Từ chỗ nầy, cứ đi thẳng tới là qua bên kia.

Kern tiếp tục đi. Anh biết lờ mờ rằng mình đang đi về hướng Saint -
Louis. Anh không lẩn tránh vì biết rằng có bị bắt cũng vậy thôi.

Kern đi lộn đường nên mãi tới sáng, anh mới đến được Saint - Louis. Anh
tới trình ngay tại một trạm Cảnh sát Pháp và khai là vừa từ Bâle qua.
Làm như vậy anh chỉ bị đuổi trở lại thôi chớ không thể bị tù.

Cảnh sát giữ anh lại suốt ngày. Tới tối họ giải anh ra đồn quan thuế để đi ngược trở lại Bâle.

Sáng sớm hôm sau, Kern đã có mặt tại Bâle. Anh thay đổi chiến thuật,
không tới sở Cảnh sát ngay buổi sáng. Anh biết là có thể lẩn tránh dễ
dàng vào ban ngày ở đây nếu có ý định chỉ đi khai báo vào buổi tối. Anh
còn giữ danh sách các địa chỉ của Binder cho, trong đó có một vài nơi
được ghi chú thuộc về thị trấn nầy.

Kern bắt đầu đến các mục sư. Những người tu hành nầy ít khi tố giác ai.
Người đầu tiên từ chối, người thứ nhì cho anh một khúc bánh mì thịt
nguội và người thứ ba năm quan. Đi một vòng tới trưa, Kern đã kiếm được
tất cả mười bảy quan.

Tới chiều, nhờ bán thêm một ít món lặt vặt mang theo Kern đã có tất cả
hai mươi tám quan. Anh ghé qua một giáo đường mở cửa. Đây là nơi an toàn
nhứt để nghỉ ngơi. Luôn hai đêm rồi Kern không hề chợp mắt.

Giáo đường âm u và trống vắng, còn phảng phất mùi nế, mùi trầm, Kern
ngồi ở một ghế dài, viết về cho bác sĩ Beer. Anh cho thơ và tiền vào
bao, dán lại, bỏ vào túi. Tới lúc đó, Kern mới nghe mệt lả. Chậm chạp,
anh quỳ xuống, gục đầu vào nơi khấn nguyện. Anh chỉ muốn dưỡng thần đôi
ba phút nhưng lại ngủ thiếp đi.

Lúc thức dậy, Kern hoàn toàn không biết mình ở đâu. Anh nheo mắt lại khi
nhìn vào ánh lửa đỏ hồng trong lư hương và từ từ nhớ ra. Cho tới khi
nghe tiếng bước chân, Kern mới hoàn toàn tỉnh trí.

Một linh mục mặc áo dòng đen từ từ bước tới. Ông dừng lại và nhìn Kern. Dè dặt, Kern chấp tay lại. Vị linh mục từ tốn nói:

- Tôi không có ý định quấy rầy cậu.

- Thưa, tôi cũng đang định đi ra.

- Tôi đã chứng kiến cậu quỳ cầu nguyện suốt hai tiếng đồng hồ chẳng biết có chuyện gì hệ trọng không...

Kern đâm ra bối rối:

- Dạ, dạ…

Vị linh mục nhìn chiếc vali của Kern:

- Cậu không phải là người ở đây.

- Thưa không. Tôi là di dân. Đêm nay, tôi lại phải đi qua biên giới lần nữa. Trong vali tôi chỉ có vài món đồ để bán.

Không hiểu sao, Kern tự nhiên nghĩ tới chuyện bán cho nhà tu nầy, chai
dầu thơm cuối cùng còn lại ngay trong nhà thờ. Thật là khó hiểu, nhưng
anh đã quá quen với nhiều chuyện còn khó hiểu hơn. Anh nói tiếp:

- Tôi còn một chai nước hoa rất tốt nhưng rất rẻ. Tôi đang định bán đi.

Anh cúi xuống toan mở vali ra.

Vị linh mục ngăn lại:

- Tôi tin lời cậu. Mình đừng bắt chước những nhân viên thuế vụ thời cổ
La Mã. Tôi rất sung sướng thấy cậu đã cầu nguyện hàng giờ. Vào kho đồ
thánh với tôi. Giáo hội đang có sẵn một quỹ cứu trợ cho những tín đồ cần
tới.

Kern vừa nhận được mười quan. Anh hơi xấu hổ nhưng chưa đầy mấy phút lại
quên ngay. Khoản tiền nầy tượng trưng một đoạn đường xe lửa trên đất
Pháp, cho anh và Ruth.

Kern quay vào giáo đường và lần nầy cầu nguyện chí tình. Anh không biết
phải gởi lời cầu nguyện của mình tới tận đâu vì chính anh là người của
đạo Tin lành và cha anh là Do Thái trong khi anh đang quỳ trong lòng một
giáo đường Thiên Chúa. Dầu vậy, Kern vẫn tin rằng lời khấn cầu của anh
tự nó sẽ tìm ra một con đường để đi tới.

Đến tối, Kern đi chuyến xe Genève. Bỗng nhiên, anh nghĩ tới việc Ruth có
thể ra khỏi nhà thương sớm hơn dự liệu. Kern tới Genève buổi sáng gởi
vali tại nhà ga rồi đến Cảnh sát khai là vừa bị đuổi từ nước Pháp qua.
Nhờ có giấy trục xuất khỏi Thụy Sĩ qua ngã Bâle, Kern không bị nghi ngờ
gì cả. Tối đến, anh bị giải tới Cologny để ra biên giới.

Kern tới trình diện tại đồn quan thuế Pháp. Một nhân viên quan thuế vừa ngáp vừa bảo Kern:

- Vào đi. Trong đó đang có một người. Khoảng bốn giờ sáng lên đường.

Kern vừa vào tới bên trong đã sửng sốt kêu lên:

- Vogt! Sao lại có mặt ở đây...

Vogt nhún vai:

- Tôi lại phạm biên giới Thụy Sĩ một lần nữa.

- Có phải từ ngày ông bị bắt đưa ra nhà ga Lucerne không...

- Đúng. Kể từ ngày đó.

Vogt trông gấy ốm hơn nhiều. Da xám sậm. Ông ta buồn thảm tâm sự.

- Toàn là chuyện xui. Tới việc muốn được ở tù mà cũng không ai cho. Mùa nầy, đêm bắt đầu quá lạnh… hết chịu nổi.

Kern ngồi xuống:

- Còn tôi thì bị ở tù. Tôi sung sướng khi được trả tự do. Đời toàn là những chuyện trái ngược.

Một Cảnh binh mang tới cho họ một ít bánh mì và rượu chát. Aên xong, cả
hai lăn ra ngủ. Bốn giờ sáng họ bị đánh thức và được dẫn trở lại biên
giới Thụy Sĩ.

Vogt rùng mình. Kern cởi áo ấm ra:

- Mặc vào đi. Tôi không lạnh.

- Không lạnh thật hả...

- Không.

- Có lẽ vì cậu còn trẻ. Ông ta trồng áo ấm của Kern vào – xin mượn tạm vài giờ… tới lúc mặt trời lên.

Trước khi tới Genève, họ chia tay. Kern nói với Vogt:

- Ông cứ giữ cái áo ấm để mặc.

- Đâu được. Aùo đáng giá lắm mà.

- Tôi còn một cái nữa. Của một giáo sĩ cho khi tôi bị tù ở Vienne.

- Thật thế à...

- Thật chớ. Aùo xanh cóviền đỏ. Ông tin rồi chớ...

Vogt cười, lấy trong túi ra một quyển sách đưa cho Kern:

- Tập thơ của thi sĩ Holderlin.

Kern tiến vào Genève. Anh ngủ hai tiếng đồng hồ trong một nhà thờ. Tới
trưa, anh ra sở Bưu điện Trung ương. Kern biết rõ là Ruth là chưa tới
được nhưng anh vẫn chờ tới hai giờ chiều. Kế đó anh duyệt lại danh sách
các địa chỉ của Binder cho. Kern lại gặp vận hên. Tới tối anh kiếm được
mười bảy quan. Chẳng còn gì để làm, anh tới Cảnh sát trình diện.

Đêm thứ bảy, sinh hoạt náo nhiệt hơn kể cả cuộc sống của những người tị
nạn. Mười một giờ đêm, người ta đưa vào hai người say khướt. Họ mửa đầy
cả phòng quan thuế, rồi cùng lè nhè hát. Một giờ khuya đã có tất cả năm
người. Đúng hai giờ, người ta đưa Vogt vào. Ông ta thiểu não lắc đầu:

- Quỉ quái thật! Chúng mình lại gặp nhau.

Khoảng một tiếng đồng hồ sau họ bị áp giải đi. Đêm lạnh buốt. Sao lấp
lánh từ trên nền trời thật cao. Trăng sáng như kim khí bị nung chảy
trong lò.

Người Cảnh binh dừng lại:

- Các người rẽ sang phải rồi tiếp tục…

Kern ngắt lời:

- Tôi biết rồi.

Họ lại tiếp tục đi và vượt qua vùng không người chia cắt giữa hai biên giới.

Trái ngược điều dự đoán, người ta không gởi trả họ lại ngay đêm đó mà
đưa họ tới cục Cảnh sát để lấy lời khai. Họ được cho ăn uống, và đêm sau
lại trở ra biên giới.

Qua khỏi biên giới, Vogt và Kern nằm nghỉ trên một đống rơm. Họ thức dậy
lúc mặt trời vừa lên. Nơi họ ngủ đêm là một triền đồi, nhìn xuống là
một cái hồ. Mặt hồ lung linh nắng sớm. Vogt im lặng nhìn làn sương mỏng
tan dần, ông ta ngắm nghía ngọn Bạch sơn nhô ra khỏi các tảng mây rách
nát và bắt đầu chiếu sáng trông như thành quách kiên cố của nước Trời.

Chín giờ Vogt và Kern bắt đầu đi.

Tới Genève họ đi dọc theo bờ hồ. Bỗng nhiên Vogt dừng lại:

- Coi kìa!

- Cái gì đâu...

Vogt chỉ tay về phía một dinh thự nằm giữa một khu vườn mênh mông. Tòa
nhà nguy nga đồ sộ đó đang tắm dưới ánh nắng. Khu vườn hùng vĩ đó không
ngớt rì rào tiếng lá khua và lá rụng. Trước sân, những dãy xe bóng loáng
đậu bên nhau. Từng toán người ra vào, mắt sáng rỡ với hân hoan.

- Cậu có biết cái gì đó không...

Kern lắc đầu.

- Đó là trụ sở Hội Quốc Liên.

Giọng ông ta vừa ngẹn ngào vừa khinh mạn khiến Kern hơi ngạc nhiên. Ông ra tiếp tục nói với giọng đều đều:

- Chính ở đó, người ta đã thảo luận hàng mấy năm dài về số phận của bọn
mình và để quyết định có nên cấp hay không thẻ căn cước cho dân tị nạn
hầu họ có thể trở lại vai trò của một con người.

Một chiếc Cadillac mui trần êm ả chạy ra cổng. Trên xe toàn là những
thanh niên thiếu nữ sang trọng vừa cười nói vừa vẫy tay ra hiệu cho
chiếc xe thứ hai ra bờ hồ dùng điểm tâm.

- Cậu có biết tại sao lại lâu đến thế không...

- Biết.

- Vậy là tuyệt vọng rồi, phải không...

Kern nhún vai:

- Họ thấy không có gì là khẩn cấp, mình chịu vậy.

Người gác cổng quan sát Kern và Vogt với vẻ nghi ngờ:

- Mấy người kiếm ai...

Kern lắc đầu.

- Vậy đứng đây làm gì...

Vogt nhìn Kern. Một chút kiêu ngạo thoáng hiện trong ánh mắt ông ta:

- Có làm gì đâu. Chúng tôi là những nhà du lịch, muốn đi dạo khắp cả trái đất này.

Gã gác cửa làm nghiêm:

- Vậy xin mời các ông đi chỗ khác.

Vogt suýt phì cười:

- Cũng được.

Trên đường Bạch sơn, họ dán mắt vào các cửa kính bày hàng. Vogt bỗng dừng lại trước một tiệm vàng:

- Mình chia tay là vừa.

- Lần nầy ông định đi đâu...

- Không xa lắm. Ngay tại tiệm nầy thôi.

Kern hơi lấy làm lạ. Anh nhìn lại những viên bích ngọc, hồng thạch, kim
cương đang nằm chói lọi trên tấm thảm nhung màu xám bên trong cửa kính.

- Chắc chẳng ăn nhằm gì đâu. Mấy ông chủ tiệm loại nầy đã quen sống với loài đá cứng nên họ không dễ gì cảm động đâu.

- Tôi không xin họ. Tôi sẽ đánh cắp một món nào đó.

Kern đâm hoảng:

- Sao... Ông nói đùa hả... Không thoát được đâu.

- Tôi có muốn thoát đâu. Chính vì vậy mà tôi có ý định đó.

- Tôi không hiểu gì cả.

- Cậu sẽ hiểu. Tôi đã nghĩ kỹ rồi. Đó là con đường duy nhứt để tôi có
thể sống qua mùa đông. Ít lắm cũng hưởng được mấy tháng tù. Sức khỏe tôi
kém lắm rồi. Thêm vài tuần đi qua đi lại biên giới nữa là tôi sẽ ngã
gục.

- Nhưng…

Vogt cắt ngang:

- Tôi biết cậu muốn nói gì rồi… Không chịu nổi nữa đâu… Vĩnh biệt.

Kern tự biết không thể ngăn cản được. Anh siết chặt bàn tay mỏng mảnh của Vogt:

- Chúc ông sớm có đầy đủ sức khỏe.

- Hy vọng như thế. Nhà tù ở đây khá lắm.

Vogt đợi Kern đi khá xa mới bước vào trong tiệm. Kern dừng lại ở góc
đường, liếc mắt về phía tiệm vàng với dáng vẻ của người chờ xe điện. Vài
phút sau, anh thấy từ trong tiệm một thanh niên chạy vụt ra rồi trở lại
với một Cảnh sát viên. Kern tiếp tục đi… “Cầu mong ông ta tìm ra nơi
yên nghỉ”.

Kern đi chậm chạp về phía Sở Bưu điện Trung ương. Anh cảm thấy mệt mỏi
lạ lùng vì những đêm sau nầy chẳng ngủ được bao nhiêu. Đáng lý Ruth phải
có mặt ở đây từ ba ngày qua. Anh không hề được một tin tức gì cả nên
tưởng tượng hàng ngàn lý do về sự im lặng đó. Bây giờ, tự nhiên anh cảm
thấy là Ruth không bao giờ tới nữa…

Tiếng động trên đường thấm nhập vào Kern mang theo cả sự chán chường.
Anh bước đi, tưởng chừng như chân chỉ là cái máy, cứ nhấc lên đặt xuống
đều đều, ngoài ý thức.

Một cái gì như màu xanh… màu xanh của một chiếc áo choàng hiện ra. Kern
dừng sững lại. Biết đâu đó chỉ là một cái áo choàng màu xanh nào đó, một
trong hàng trăm cái áo màu xanh đã khiến anh gần phát điên từ một tuần
qua.

Kern nhìn ra chỗ khác nhưng rồi vẫn quay mặt lại chỗ có màu xanh. Một
người đàn bà to béo đi qua che khuất tầm mắt khiến Kern sốt ruột. Cái áo
choàng màu xanh nhảy múa trước mặt, Kern dè dặt tiến tới như một người
đu dây. Thình lình, anh thấy có một cái gì quen thuộc, quen thuộc lắm
trước khi nhìn ra sắc diện. Anh chạy ào tới:

- Ruth! Em đã tới! Vậy mà anh…

Kern ôm chầm người yêu và nghe thấy nàng đang siết chặt mình. Họ ôm cứng
lấy nhau như hai người đang đứng trên đỉnh núi đang gặp một trận cuồng
phong, phải bấu víu vào nhau để khỏi bị cuốn lôi vào vực thẳm. Họ ôm
nhau ngay trước cổng sở Bưu điện Genève giữa giờ tấp nập nhứt trong
ngày. Nhiều người đi qua, chen lấn họ, có kẻ nhìn ngoái lại mỉm cười với
đôi chút ngạc nhiên. Họ không thấy ai cả, tưởng chỉ có mình thôi. Mãi
tới khi một nhân viên mặc sắc phục hiện ra. Kern mới bừng tỉnh. Anh
buông Ruth ra, bảo nhỏ:

- Vào ngay trong sở kẻo rắc rối.

Họ đi lẫn vào đám đông và tới đứng xếp hàng đợi ở chỗ bán tem.

- Người ta đưa em tới thẳng đây hay giải ra Bâle...

- Không. Ở Morat, họ cho em giấy lưu trú ở Thụy Sĩ ba ngày. Em mua vé xe tới đây ngay.

- Hay quá! Vậy là không đáng sợ. Em gầy và hơi xanh.

- Nhưng em sẽ bình phục mau. Em có xấu đi không...

- Xấu thế nào được. Em đẹp thêm ra. Cứ mỗi lần gặp lại là mỗi lần em đẹp hơn. Em đói chưa...

Ruth cười:

- Đói chớ. Đói tất cả, đói được gặp anh, đói được đi dạo trên đường phố, đói không khí và chuyện trò.

- Mình nên đi điểm tâm ngay. Anh vừa tìm ra một quán ăn có cá tươi bắt
từ dưới hồ lên. Cũng như ở Lucerne – Kern cười thật tươi – Thụy Sĩ có
nhiều hồ quá. Hành lý em để đâu...

- Gửi ở nhà ga. Bây giờ em có nhiều kinh nghiệm lắm.

- Giỏi lắm. Aø này, anh đã mua vé xe lửa đi Pháp hôm kia. Anh biết rõ cả
đường đi nước bước trước giờ ra ga, mình sẽ ở trong một quán cóc hoàn
toàn an ninh.

- Anh mua vé rồi hả... Tiền đâu... Anh gởi cho em quá nhiều mà.

- Trong cơn tuyệt vọng, anh làm tiền gần hết các nhà tu sĩ Thụy Sĩ. Anh
quậy nát Bâle và Genève như một kẻ cướp. Bây giờ, ít lắm cũng phải sáu
tháng nữa mới dám chường mặt những nơi đó.

Ruth cười:

- Em cũng có một ít tiền. Bác sĩ Beer trao cho em. Đó là tiền của một ủy ban cứu trợ dân tị nạn.

Kern nắm chặt bàn tay của Ruth:

- Em đã mướn phòng chưa...

- Em vừa xuống xe là đi thẳng tới đây.

Kern ngập ngừng giây lát:

- Em biết không, mấy lúc sau nầy anh trở thành một loại sống đêm. Anh
không muốn mạo hiểm. Vì vậy anh thích chọn các cơ sở của Nhà nước.
Không, không phải nhà tù đâu. Anh muốn nói mấy đồn quan thuế biên giới. Ở
đó, ngủ ngon lắm, lại ấm cúng. Tất cả các trạm quan thuế đều được sưởi
ấm rtong mùa lạnh. Nhưng còn em thì khác. Phải sống thật sang như bà
hoàng. Anh sẽ lấy một phòng ở khách sạn Bellevue. Các đại biểu của Hội
Quốc Liên, các bộ trưởng và những nhân vật cùng loại vô dụng đều ở đó.

- Không được. Em nhứt định ở bên anh. Nếu anh ngại có gì nguy hiểm thì mình đi ngay đêm nay.

- Cái gì vậy...

Người bán tem làm Kern và Ruth giựt mình. Họ đã tới sát quầy mà không hay. Kern trả lời thật mau:

- Cho con tem mười xu.

Kern trả tiền. Hai người đi trở ra. Ruth hỏi:

- Anh định làm gì với con tem đó...

- Biết đâu, anh chỉ phản ứng tự nhiên khi thấy một bộ sắc phục.

Kern nhìn con tem có in hình quỉ dữ bị rơi xuống chân núi Saint - Gothard, chợt có ý:

- Hay là sẽ viết thơ nặc danh lăng mạ lão Ammers.

Ruth chợt nhớ ra:

- Ammers… Anh biết ông ta đang điều trị tại bác sĩ Beer không...

- Sao... Thật không... Bị đau gan phải không... Nếu phải thì kỳ lạ quá.

Ruth cười vặn người, mềm mại như dây bìm:

- Đúng vậy. Ông ta đau gan. Do đó phải tới Beer vì Beer là bác sĩ chuyên trị gan duy nhứt ở Morat.

- Chúa ơi! Quả là một ngày trọng đại của con. Có lần Steiner bảo, tình
yêu và sự phục hận cùng đến một lúc là một trong những biến cố kỳ lạ
nhứt có thể xảy ra. Cũng có thể là tên lưu manh sẽ chết rục trong tù giờ
nầy hoặc là đã bị gãy chân rồi.

- Hoặc là hắn bị lấy hết tiền bạc.

- Hay lắm. Em có nhiều ý kiến rất hay.

Hai người ra tới đường. Ruth hỏi:

- Mình đi ngay đêm nay hả anh...

- Em cần phải ngủ để lấy sức. Đường còn xa…

- Vậy thì mình tìm một nhà trọ nào đó trong các địa chỉ của Binder. Có gì đáng ngại lắm không...

- Chắc chẳng có gì đâu. Càng gần biên giới anh càng không đáng ngại.
Được rồi, đã có em ở đây, anh không thể đành lòng đi một mình, dù chỉ là
một đêm rồi trở lại.

Ruth quả quyết:

- Em không cần biết gì hết, anh ở đâu em ở đó.
Về Đầu Trang Go down
https://duonghoalac-hoabinh.forumvi.com
Admin
Admin
Admin
Admin

Tổng số bài gửi : 1754
Điểm : 6794
Ngày tham gia : 22/12/2010
Tuổi : 38
Đến từ : Hà Nội
Level: 38 Kinh nghiệm: 1754%
Sinh mệnh: 1754/100
Pháp lực: 38/100

NGƯỜI ĐIỀU HÀNH
Phù hiệu: Bản du ca cuối cùng - Erich Maria Remarque POLLICE

Bản du ca cuối cùng - Erich Maria Remarque Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Bản du ca cuối cùng - Erich Maria Remarque   Bản du ca cuối cùng - Erich Maria Remarque Icon_minitimeThu Apr 14, 2011 7:51 pm

Chương 16

Kern và Ruth vượt biên giới không gặp một trở ngại nào, họ
đi xe lửa tới Bellegarde. Ngay đêm đó họ tới Ba Lê và cứ lẩn quẩn mãi
trước nhà ga, chẳng biết phải đi đâu.

Kern nhìn người yêu:

- Can đảm lên, Ruth! Mình sẽ tìm tới một khách sạn nhỏ nào đó gần đây. Giờ nầy thì chẳng còn cách nào hơn.

Tới một con đường ngang, họ bắt gặp một bảng hiệu dạ quang màu đỏ “Khách sạn Habana”. Kern vào hỏi giá phòng.

Người gác cửa hỏi lại:

- Ngủ đêm thôi phải không...

Kern hơi ngạc nhiên:

- Phải.

- Hai mươi lăm quan.

- Phòng hai người...

Tới phiên người gác cửa ngạc nhiên:

- Chớ còn gì nữa.

Kern ra gọi Ruth vào. Người gác cửa liếc nhìn họ thật nhanh rồi trao một
tấm phiếu khai lý lịch. Kern trầm ngâm, do dự. Người gác cửa cười:

- Chẳng có gì đâu. Hình thức thôi.

Nhẹ nhõm, Kern ghi vào phiếu tên Ludwig Oppenheim.

Một gã bồi phòng đưa họ lên chỗ trọ. Phòng không mấy rộng nhưng sạch sẽ
với chiếc giường khá to và êm ái, hai cái bàn, một ghế dựa nhưng không
có tủ.

Kern đặt va - li xuống rồi tới cửa sổ nhìn ra:

- Thế là chúng mình đang ở Ba Lê.

Ruth cười thật tươi:

- Như chiêm bao.

- Em có nghe anh nói tiếng Pháp không... Anh hiểu tất cả những gì người gác cửa nói.

Ruth khen:

- Anh giỏi quá. Còn em không thể mở miệng được.

- Vậy mà em giỏi tiếng Pháp hơn anh. Chẳng qua là nhờ anh dạn miệng.
Thôi, mình kiếm gì lót dạ cái đã. Tới một thành phố nào mà không đi ăn
uống thì vẫn còn bị mặc cảm là thành phố ấy thù nghịch với mình.

Hai người đi qua một quán ăn nho nhỏ gần bên khách sạn.

Với sáu quan, họ được trọn một phần ăn kể cả một ly rượu chát loại rẻ
tiền nhưng khá ngon. Suốt ngày chẳng ăn uống gì đáng kể nên bây giờ rượu
ngấm rất mau khiến cả hai trở về ngay khách sạn.

Tại phòng khách, một thiếu nữ đang đứng bên một thanh niên có vẻ đã say.
Cô gái khá đẹp nhưng trang điểm hơi thái quá. Cô ta ném một cái nhìn
khinh khỉnh về phía Kern. Người đàn ông đang hút xì - gà không buồn
tránh chỗ Kern tới lấy chìa khoá phòng.

Kern mở đèn lên. Ruth buông xách tay và áo choàng xuống đất ôm chầm lấy Kern:

- Em đang mệt, mệt và phiền não, nhứt là đang phiền não. Bồng em lên giường đi.

- Xin tuân lệnh.

Ruth ngả đầu lên vai Kern, thở dài rồi ngủ vùi như một đứa trẻ. Kern nằm nghe hơi thở của mình và của Ruth rồi cũng ngủ say.

Kern từ trong trụ sở uỷ ban cứu trợ bước ra. Trước khi tới đây anh đã
đoán là người ta sẽ nói những gì. Không nên nghĩ là sẽ có được một giấy
phép lưu trú. Về phần cứu trợ thì chỉ những trường hợp tối cần thiết mà
thôi. Dầu có được cho lưu trú cũng không được phép hành nghề.

Kern không thấy gì đáng kể thất vọng, nước nào cũng vậy thôi. Tuy nhiên,
hàng vạn dân tỵ nạn vẫn sống nhăn trong khi nếu áp dụng đúng theo luật
lệ, họ đã chết đói từ lâu.

Tới phòng đợi, anh dừng lại. Trong phòng lúc bấy giờ đã đầy kín những
người. Anh quan sát từng người một và sau cùng đi tới chỗ một người đàn
ông đang đứng riêng một mình có vẻ trầm lặng, suy tư. Anh lễ phép hỏi:

- Xin lỗi, chẳng biết ông có vui lòng chỉ giúp cho tôi một chỗ trọ mà chẳng cần khai báo hay không... Tôi vừa tới Ba Lê hôm qua.

Người đàn ông không kiểu cách:

- Có tiền không...

- Dạ chỉ có ít thôi.

- Cậu có thể trả sáu quan một phòng không...

- Tạm thời thì được.

- Vậy thì tới lữ quán Verdun, đường Turenne. Nói với người chủ là do tôi
giới thiệu. Tên tôi là Klassmann – ông ta nói thêm với giọng mỉa mai –
Bác sĩ Klassmann.

- Thưa, ở Verdun có an toàn không...

- Chẳng có đâu là an toàn cả. Nhưng ở đó người ta không ghi ngày tháng
vào phiếu và cũng không nộp phiếu cho Cảnh sát. Khi có kiểm soát họ bảo
là mình chỉ mới tới ban đêm và sẽ gởi phiếu đi vào sáng hôm sau, cậu
hiểu chưa... Điều cốt yếu là đừng để bị bắt tại chỗ. Ở đó còn có một
đường hầm. Verdun không hẳn là một lữ quán mà là một kiến trúc theo ý
muốn của thượng đế, được xây lên cách đây năm mươi năm, để đón chờ những
người tỵ nạn. Cậu đã đọc xong tờ báo chưa...

- Dạ, xong rồi.

- Vậy cho tôi và chúng mình kể như không nợ nần nhau.

- Dạ đây. Cám ơn ông nhiều.

Kern vội vàng tới gặp Ruth đang đợi ở một quán nhỏ góc đường. Nàng đã
mua được một bản đồ thành phố Ba Lê và một quyển văn phạm Pháp. Nàng chỉ
vào hai món đồ đó:

- Em mới mua rẻ trong một tiệm bán sách cũ. Đây là hai vũ khí hữu hiệu để mình chinh phục Ba Lê.

- Tốt lắm. Mình có dịp dùng tới ngay. Em dò xem đường Turenne ở đâu.

Lữ quán Vedun là một toà nhà cổ, loang lổ nhiều nơi. Qua khỏi một cái
cửa hẹp là tới một cái quầy gần như suốt ngày lúc nào cũng có bà chủ,
một thiếu phụ gầy nhom, mặc toàn đen, ngồi trên đó.

Kern nói với bà ta bằng tiếng Pháp không trôi chảy. Bà ta nhìn Ruth và Kern từ đầu đến chân với đôi mắt nhỏ đen láy:

- Ở không hay tính luôn tiền ăn...

- Nếu ăn luôn thì bao nhiêu...

- Hai chục quan mỗi người. Ba bữa ăn. Điểm tâm trong phòng. Các bữa kia dọn trong phòng ăn.

Kern nói với Ruth bằng tiếng Đức:

- Mình ăn ở đây ngày đầu rồi sẽ tính. Vấn đề chính là chỗ ở trước đã.

Ruth gật đầu. Kern nói với bà chủ quán:

- Nếu ở chung một phòng thì giá tiền có bớt không...

Bà chủ trọ lắc đầu:

- Chưa có phòng trống cho hai người. Nếu ở thì lấy phòng một trăm bốn
mươi một và một trăm bốn mươi hai – bà ta ném chìa khoá lên bàn – trả
tiền trước mỗi ngày.

Kern ghi tên vào phiếu nhưng không đề ngày tháng. Anh trả tiền và lấy chìa khoá.

Cả hai phòng đều chật hẹp như nhau. Kern chép miệng:

- Đúng là ổ chuột dành cho dân tỵ nạn. Dầu sao cũng có đôi chút không khí gia đình. Em nghĩ sao...

- Em thì cho là sang trọng lắm. Mỗi phòng có một giường. Anh còn nhớ ở Prague không... Ba bốn người ở chung nhau.

- Phải, anh quên mất. Anh cứ nghĩ tới căn nhà của Neumann ở Zurich.

Ruth cười lớn:

- Còn em thì lại nhớ tới vựa cỏ mà chúng mình bị mưa dột làm ướt ngoi.

- Em suy luận đúng hơn anh. Nhưng em biết tại sao những ý nghĩ ấy đến với anh không...

- Em biết, nhưng đó chỉ là ý nghĩ sai. Mình sẽ mua ít giấy bóng để làm
chụp đèn. Mình học tiếng Pháp ở bàn nầy và nhìn ra khoảnh trời nho nhỏ
trên mái ngói. Mình sẽ ngủ và thức trên những chiếc giường nầy, có lẽ là
những chiếc giường êm ả nhứt thế giới, và khi ra đứng bên cửa sổ, cái
sân bẩn thỉu dưới kia sẽ có vẻ nên thơ vì nó là một cái sân của thành
phố Ba Lê.

- Hay lắm! Và bây giờ mình tới phòng ăn. Mình sẽ ăn những món ăn của Pháp, và có thể đó là những món ngon nhứt thế giới.

Phòng ăn của lữ quán Verdun là một gian hầm. Những người ở đây gọi đó là
“mộ địa”. Muốn tới đó phải đi qua một đoạn đường dài khúc khuỷu với
những thang lầu, những hành lang và những căn phòng bỏ trống hàng chục
năm sực nức mùi băng phiến, không khí đọng lại như nước ao hồ. Phòng ăn
khá rộng vì một phần thuộc về khách sạn Quốc Tế ở sát bên mà người khai
thác không ai khác hơn là em gái của bà chủ bên nầy.

Đối với hai nhà ngủ tồi tàn nầy, phòng ăn được coi là một nơi giải trí
của khách trọ. Những người tị nạn nhìn thấy ở đó như những hầm mộ của La
Mã thời xưa. Khi có một cuộc bố ráp bên Quốc Tế, khách trọ ùa vào phòng
ăn để qua bên Verdun và ngược lại. Có thể bảo đó là nhà mồ cộng đồng có
mục đích cứu rỗi những kẻ chưa muốn chết.

Kern và Ruth đứng ở cửa, chưa biết phải làm gì. Mặc dầu đã giữa trưa
nhưng vì gian phòng không có cửa sổ nên phải để đèn. Aùnh điện vào giờ
đó khiến cho không khí có vẻ âm u, buồn thảm và bệnh hoạn.

Kern bỗng nắm tay Ruth:

- Uûa! Marill kìa!

- Đâu...

- Đàng kia, gần ngọn đèn. Hay quá! Mới chân ướt chân ráo đã gặp ngay người quen.

Ngay lúc đó Marill cũng vừa nhận ra Kern và Ruth. Ông ta sững sờ mất mấy giây rồi vội vã đi tới chỗ họ.

- Mấy đứa bé tới Ba Lê! Ồ thật là khó tin. Làm sao tìm ra được cái ký túc xá cổ lỗ này.

- Bác sĩ Klassmann chỉ.

- Klassmann... Vậy à... Được lắm. Verdun kể như toàn hảo. Có trả luôn tiền ăn chớ...

- Dạ, chỉ một ngày thôi.

- Tốt. Vậy thì ngày mai chỉ trả tiền phòng không thôi và mua lấy thức
ăn. Như thế ít tốn kém hơn. Thỉnh thoảng cũng nên ăn ở đây một hôm để bà
chủ vui lòng. Rời Vienne là phải, tình hình ở đó bắt đầu rối rắm.

- Còn ở đây...

- Ở đây... Aùo, Tiệp, Thụy Sĩ, đó là trận chiến chuyển động của phong
trào di dân, nhưng Ba Lê lại là chiến trận vị thế. Hầu hết những đợt
sóng di dân đều đổ tới đây. Cậu có thấy người mặc áo lông cừu đen đằng
kia không... Ông ta là người Ý. Người có râu bên cạnh... Dân Nga. Và
cách đó hai ghế... Một người Tây Ban Nha. Rồi kia nữa là một người Ba
Lan và hai người Mỹ. Sau hết là bốn người Đức. Ba Lê là hy vọng cuối
cùng và cũng là vận hội sau chót của thế giới – ông ta nhìn đồng hồ –
lại đây, cô cậu. Gần hai giờ rồi. Nếu cần ăn thì ăn ngay. Người Pháp
luôn luôn đúng giờ đối với các bữa ăn. Quá hai giờ là chẳng còn gì cả.

Kern và Ruth ngồi cùng bàn với Marill.

- Aên ở đây, nên nhớ tới cô hầu bàn mập mạp kia. Tên cô ta là Yvonne,
dân Alsace. Tôi không hiểu cô ta làm thế nào mà các dĩa ăn do cô tới đều
đầy hơn các dĩa khác.

Yvonne mang súp tới với một nụ cười tươi.

Marill hỏi Kern:

- Còn được bao nhiêu tiền...

- Đủ còn khoảng mười lăm hôm.

- Tốt lắm. Nhưng có định làm gì chưa...

- Dạ chưa. Chúng tôi mới tới đêm qua. Những người ở đây sống bằng cách gì...

- Hỏi rất chí lý, Kern. Bắt đầu bằng tôi trước đã. Tôi sống nhờ vào một
số bài viết cho các tờ báo chuyên lo về dân tỵ nạn. Người ta chịu mua
bài vì biết tôi trước kia là dân biểu ở Reichtag. Người Nga thì tất cả
đều có thông hành Nansen và giấy phép hành nghề. Họ là những người lưu
vong trước chúng ta hai chục năm. Họ làm bồi bàn, nấu bếp, đấm bóp, gác
cửa, đánh giày, lái xe… Kế đó là người Ý, di dân đợt hai. Phần người Đức
bọn mình, phần lớn vẫn có giấy thông hành còn lực, một số họ tiện ít
được cấp giấy hành nghề. Còn chút ít tiền bạc, tặn sống qua ngày. Nhưng
rất nhiều người chẳng còn đồng nào cả. Họ phải làm việc lậu để kiếm một
vài quan. Ông luật sư ngồi kia phải thông dịch mướn và đánh máy để kiếm
một vài quan. Anh chàng ngồi bên ông ta chuyên hướng dẫn người Đức có
của tới những hộp đêm. Cô đào hoạn nạn ngồi trong góc đi coi chỉ tay.
Một số đi dạy sinh ngữ. Có người chỉ sống nhờ vào quỹ cứu trợ. Tóm lại,
một số người đi làm và một số ăn xin. À, cậu đã đi vào văn phòng cứu trợ
chưa...

- Mới hồi sáng nầy.

- Họ không giúp gì cả...

- Dạ, không.

- Chẳng sao, cứ trở lại đó. Ruth nên tới cơ quan tương trợ Do Thái còn
cậu thì gõ cửa các văn phòng hỗn hợp – ông ta cười – sự nghèo đói cũng
có chế độ riêng của nó. Cậu đã ghi tên chưa... Mai tới đó đi. Klassmann
có thể giúp được. Có thể ông ta sẽ giúp Ruth lấy được thẻ lưu trú vì
Ruth có giấy thông hành.

Kern lắc đầu:

- Đã hết hiệu lực rồi, lại còn vượt biên giới bất hợp pháp.

- Không sao đâu. Miễn có giấy thông hành là được. Klassmann sẽ nói rõ cho cậu biết.

Yvonne mang khoai tây tới với một dĩa đựng ba miếng thịt trừu. Kern cười với cô ta. Yvonne dịu dàng cười theo. Marill bảo:

- Thấy rõ chưa... Phần ăn của mỗi người là một miếng, vậy mà Yvonne vẫn có cách tặng thêm miếng nữa.

Ruth nhìn cô hầu bàn:

- Cám ơn Yvonne.

Mặt Yvonne sáng hẳn ra. Cô ta vừa đi vừa nhún nhẩy.

Marill hỏi Ruth:

- Còn theo dõi hoá học không...

- Tạm thời thì đang bỏ.

- Vậy là khôn. Có thấy người ngồi đằng kia với cuốn sách đó không...
Luôn hai năm, cậu ta giúp việc trong hộp đêm, vừa làm vừa học. Mới đậu
Tiến sĩ cách đây mười lăm hôm. Bây giờ cậu ta lại di học Anh ngữ cố lấy
được bằng sinh ngữ nay mai để đi Nam Phi vì ở đây không còn chỗ làm. Đó
có phải là một niềm an ủi đối với cô bé không...

- Dạ, đúng vậy.

- Còn Kern...

- Với tôi, tất cả đều có thể là niềm an ủi. Cảnh sát ở đây thế nào...

- Không gắt lắm.

- Lại thêm một niềm an ủi.

Sau khi đưa Kern vào văn phòng cứu trợ để ghi tên và tạt vào sở Di Trú
để chứng kiến cảnh xin giấy tờ khó khăn của dân tị nạn. Bác sĩ Klassmann
bảo Kern:

- Mình ghé quán kiếm gì giải khát.

Họ ngồi vào một cái bàn xoay. Kern thấy tỉnh người đôi chút sau khi uống xong ly rượu chát. Anh hỏi Klassmann:

- Chặng nào là chặng cuối...

- Chặng cuối là nơi những người như chúng mình ngã chết vì đói lạnh.
Trong nhà tù, trong đường xe điện hầm ban đêm, trong những ngôi nhà xây
cất dở dang. Hoặc là dưới dạ cầu sông Seine.

Kern nhìn dòng người xuôi ngược không ngừng qua trước quán, Klassmann chợt hỏi:

- Cậu bao nhiêu tuổi...

- Hai mươi mốt, gần hai mươi hai.

- Tôi đoán không sai. Con trai tôi cũng bằng tuổi cậu.

- Anh ấy cũng ở đây...

- Không. Vẫn ở Đức.

- Tội nghiệp…

Klassmann cắt ngang:

- Không phải cho nó. Nếu có ở đây còn tồi tệ hơn.

Keern ngạc nhiên:

- Vậy à...

- Chớ sao. Nếu có nó ở đây tôi sẽ chặt nó ra từng mảnh.

- Sao vậy...

- Nó tố cáo tôi. Tại nó mà tôi phải bỏ xứ.

Kern buột miệng:

- Khốn kiếp!

- Tôi là người thiên chúa giáo. Còn nó thì gia nhập tổ chức Thanh Niên
Quốc Xã. Cậu có thể đoán là giữa tôi và nó đã có hơn một lần to tiếng.
Càng ngày nó càng cứng đầu hơn. Một hôm nó nó với tôi, bằng giọng điệu
của nột thượng sĩ nói với tân binh, là tôi phải im miệng, nếu không sẽ
có chuyện sảy ra. Tôi tát nó. Nó bỏ đi tố cáo với Cảnh sát. Nó thuật y
những gì tôi đã nói về đảng. Rất may là có người thông báo gấp cho tôi.
Lúc toán biệt kích tới thì tôi đã đi rồi.

Kern chép miệng:

- Kể cũng ly kỳ.

- Và chuyện ly kỳ lại có thể xảy ra khi tôi trở về.

Steiner gắn huy hiệu Quốc Xã vào ve áo:

- Tuyệt diệu, Beer. Bạn tìm cái nầy ở đâu ra...

Bác sĩ Beer cười:

- Của một bịnh nhân tặng. Hắn bị đụng xe gần Morat. Chính tôi săn sóc
hắn. Ban đầu hắn còn dè dặt nhưng sau đó thì nói toạc cả ra. Chúng tôi
uống với nhau mấy ly cognac rồi hắn tặng tôi huy hiệu làm kỷ niệm. Rất
tiếc là hắn bị gọi về Đức.

- Xin thượng đế ban phước lành cho hắn!

Steiner vừa nói vừa lật tập hồ sơ xanh trên bàn, trong đó có một danh
sách đóng dấu chữ vạn và một số truyền đơn chánh trị. Anh gật gù:

- Thế nầy là đủ rồi, lão ta không nghi ngờ gì được.

Truyền đơn và danh sách là của Beer do một tổ chúc Quốc Xã ở Stuttgart
gởi tới vì những lý do không được sẵn sàng chiến đấu với lão Ammers.
Beer đã kể cho anh nghe chuyện Ammers hại Kern.

- Chừng nào bạn đi...

- Mười một giờ. Nhưng trước khi đi tôi còn trở lại để trả huy hiệu.

- Tốt. Tôi sẽ đợi với một chai rượu.

Steiner rời nhà Beer. Một lúc sau anh nhận chuông nhà Ammers. Người đàn bà giúp việc ra mở cửa. Steiner lấy giọng kẻ cả:

- Tôi cần gặp ông Ammers. Bảo là có ông Huber.

Người giúp việc quay vào rồi trở ra hỏi:

- Thưa, về chuyện gì...

Steiner trừng mắt:

- Chuyện của đảng.

Không đầy một phút, Ammers ra tới. Lão ta nhìn Steiner với chút ít nghi ngại. Steiner nghiêm mặt:

- Đồng chí Ammers, hả...

- Vâng.

Steiner bật ve áo ra cho thấy huy hiệu và tự giới thiệu:

- Huber. Tôi thay mặt cho tổ chức đảng ở hải ngoại cần hỏi đồng chí vài câu.

Ammers vội vàng đứng nghiêm:

- Xin mời, xin mời vào, thưa…

- Tên tôi là Huber. Schlichtweg Huber. Đồng chí nên biết… kẻ thù có thể nghe lén mình.

- Thưa, tôi biết. Đó là huy hiệu danh dự, thưa ông Huber.

Những suy đoán của Steiner không sai. Ammers không hề nghi ngờ gì cả. Sự
thần phục và sợ hãi Getapo khiến lão ta không dám nghĩ khác. Và cho dầu
có nghi ngờ, lão ta cũng không hại được Steiner trên đất Thuỵ Sĩ, nhứt
là Steiner có giấy thông hành Aùo với tên Huber. Không một ai biết nổi
hắn đã dính líu với Quốc xã Đức tới mức độ nào. Ngay như tòa Đại sứ lúc
sau nầy cũng không biết rõ các hoạt động mật của đảng.

Tới phòng khách, Steiner không đợi mời đã ngồi vào chiếc ghế dựa dành cho chủ nhân, nói như ra lệnh:

- Đồng chí ngồi xuống đó.

Rồi vừa lật hồ sơ, hắn vừa tiếp:

- Chắc đồng chí đã biết nguyên tắc chính yếu của chúng ta khi hoạt động ở nước ngoài là phải kín đáo chớ...

Ammers gật đầu.

- Chúng tôi cũng tin tưởng đồng chí về điểm đó. Thế nhưng mới đây, chúng
tôi lại có tin là đồng chí đã làm ồn ào vì một tên di dân vô danh nào
đó. Có đúng thế không...

Ammers gần như nhẩy nhổm:

- Tên lưu manh đó. Nó đã làm cho tôi mang bịnh và trở thành lố bịch…

Steiner vẫn sẵn giọng:

- Lố bịch... Có phải lố bịch trước công chúng không, đồng chí Ammers...

Ammers sợ sệt:

- Thưa, không trước công chúng. Tôi muốn nói là chính mình cảm thấy lố bịch.

Steiner nhìn lão ta đăm đăm:

- Đồng chí Ammers, một người của đảng không được lố bịch dầu chỉ là lố
bịch trước mắt mình! Lố bịch… đó là từ ngữ không thể có trong đảng. Chỉ
có những kẻ khác mới là lố bịch, đồng chí hiểu chưa...

- Thưa hiểu.

Ammers lau mồ hôi trên trán. Trong đầu lão đã hiện ra cảnh tội tù. Lão ấp úng:

- Thưa, đó chỉ là trường hợp duy nhứt… Tinh thần tôi vẫn không thay đổi… Tôi vẫn trung thành…

Steiner cắt ngang:

- Tôi cũng mong đó là trường hợp duy nhứt không bao giờ tái diễn. Kể từ
nay trở đi, đồng chí không cần lo cho bọn di dân, hiểu chưa...

Ammers gật đầu hăng hái. Lão lại tủ rượu lấy ra hai cái ly nạm bạc, bên trong có mạ vàng và một chai rượu.

Steiner hỏi giọng bất cần:

- Cái gì vậy...

- Thưa, cognac.

Steiner dịu giọng hơn nhưng vẫn làm ra vẻ kẻ cả:

- Người ta đãi rượu bằng loại ly nầy khi nào rượu không được ngon mấy. Mang cho tôi một ly thường thôi, đừng quá nhỏ.

Ammers mừng ra mặt:

- Vâng. Có sẵn cả.

Uống xong, Steiner lật hồ sơ:

- Còn một việc nầy nhờ đồng chí. Nhưng phải tuyệt đối giữ bí mật. Đồng
chí biết là chúng ta chưahoạt động đáng kể lắm ở đây về mặt tuyên
truyền.

- Vâng, tôi cũng nghĩ vậy.

- Tốt. Nhưng đảng không thể trì trệ như thế này mãi. Mình phải có một
ngân quỹ bí mật – Anh ta liếc nhìn danh sách – đảng đã có một số nhà hảo
tâm giúp rồi. Nhà nầy là của đồng chí, phải không...

Giọng Ammaers nghe yếu đi:

- Vâng.

- Đồng chí định giúp bao nhiêu. Danh sách nầy cần phải gởi gấp về Bá Linh. Tôi ghi năm chục quan, được không...

Ammaers nhẹ người. Lão ta tưởng ít nhất cũng phải một trăm quan. Lão trả lời rất mau:

- Dạ được. Ghi sáu chục cũng được.

- Tốt. Vậy thì ghi sáu chục.

Ammers lấy một tờ giấy bạc năm chục quan và một giấy bạc mười quan đặt trên bàn. Steiner cho tiền vào cặp:

- Đồng chí có biết tại sao chẳng có biên lai không...

- Thưa biết. Tuyệt đối bí mật. Chúng ta đang ở Thụy Sĩ.

Steineer gật đầu:

- Hay lắm. Nhớ tránh những vụ rắc rối không đáng kể. Giữ được bí mật là kể như đã thành công một nửa.

- Vâng. Tôi sẽ cố tránh.

Steiner ra về, đi quanh co một lúc khá lâu mới trở lại nhà Bác sĩ Beer.
Về Đầu Trang Go down
https://duonghoalac-hoabinh.forumvi.com
Admin
Admin
Admin
Admin

Tổng số bài gửi : 1754
Điểm : 6794
Ngày tham gia : 22/12/2010
Tuổi : 38
Đến từ : Hà Nội
Level: 38 Kinh nghiệm: 1754%
Sinh mệnh: 1754/100
Pháp lực: 38/100

NGƯỜI ĐIỀU HÀNH
Phù hiệu: Bản du ca cuối cùng - Erich Maria Remarque POLLICE

Bản du ca cuối cùng - Erich Maria Remarque Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Bản du ca cuối cùng - Erich Maria Remarque   Bản du ca cuối cùng - Erich Maria Remarque Icon_minitimeThu Apr 14, 2011 7:51 pm

Chương 17

Có tiếng gõ cửa. Ruth giựt mình, lắng tai nghe. Nàng chỉ
có một mình vì Kern đã đi từ sáng sớm để tìm việc. Nàng do dự một lúc
rồi nhẹ nhàng đi qua phòng Kern bằng cửa thông nhau giữa hai phòng.

Ruth rón rén ra hành lang phía bên kia, đứng ở góc tường nhìn lại.

Một người đàn ông khoảng bốn mươi tuổi đang đứng trước cửa phòng Ruth.
Nàng biết mặt ông ta và có nghe gọi là Brosse. Vợ ông ta bị bịnh nằm
liệt giường mấy tháng nay. Họ chỉ sống nhờ tiền cứu trợ và chút ít của
cải mang theo. Ở lữ quán Verdun mọi người đều biết rõ chuyện của nhau.
Nàng tới gần:

- Ông tìm tôi...

- Vâng. Có phải cô là Holland không...

- Chính tôi.

- Tên tôi là Brosse, ở tầng dưới nầy. Vợ tôi bịnh… Nhưng tôi phải ra
ngoài để kiếm việc làm. Tôi mạn phép đến gặp cô để xem cô có chút thì
giờ…

Da mặt Brosse xanh xao, đầy nét phiền muộn. Ở đây, hễ cứ thấy ông ta là
mọi người đều lảng ra để khỏi bị nhờ đóng vai an ủi bịnh nhân.

- Vợ tôi có những hôm… buồn đến lạnh người. Thế mà khi có người chuyện
vãn là lại vui lên làm như sắp hết bịnh. Không biết cô có vui lòng …

Mấy ngày qua Ruth bắt đầu đan áo ấm. Có người cho biết, một cửa hiệu Nga
tại Chaps - Eslysees nhận mua loại áo len đan để bán lại đắt hơn gấp
ba. Ruth ngẫm nghĩ rồi bảo:

- Ông đợi một chút. Để tôi vào lấy vài món.

Ruth đem cả đồ đan theo Brosse xuống lầu dưới.

Về tới phòng, Brosse cố làm ra vẻ vui tươi:

- Lucie, anh mời cô Holland tới chuyện trò với em đây.

Hai con mắt đen trên khuôn mặt sáng hướng thẳng về phía Ruth. Brosse nói mau:

- Bây giờ anh đi. Tối về thế nào cũng có việc làm.

Ông ta cười, nhè nhẹ đi ra khép cửa lại. Người đàn bà lạnh lùng hỏi Ruth:

- Chồng tôi đến kiếm cô, phải không...

Ruth không muốn trả lời, nhưng nghĩ lại, nàng gật.

- Cám ơn cô. Nhưng tôi ẫn có thể nằm một mình. Cô cứ làm việc. Tôi cần ngủ một chút.

- Bà cứ tự nhiên. Tôi có đem theo đồ đan đây.

Người đàn bà thở dài:

- Ở bên một người bịnh chán lắm…

- Nhưng ngồi một mình trong phòng còn chán hơn.

Một lúc lâu không nghe người đàn bà nói, Ruth ngước lên. Bà ta đang khóc nghẹn.

- Trời ơi, ước gì tôi được ra ngoài phố một lần…

Nhìn khuôn mặt xám mét của người bịnh, chiếc giường tồi tàn rồi nhìn ra
con đường ngập nắng chiều, những ngôi nhà có bao lơn và tấm bằng cao
nghệu với một cái chai khổng lồ kết lại bằng các ống đèn để quảng cáo
cho rượu khai vị Dubonnet, tự nhiên Ruth cũng cảm thấy cái thế giới bên
ngoài cửa sổ đó như thuộc về một hành tinh khác.

Người đàn bà nín khóc, mệt nhọc ngồi lên:

- Cô về phòng à...

- Không.

- Cô đừng giận. Bịnh lâu quá tánh tình tôi không được bình thường…

Ruth ngồi xuống bên người đàn bà:

- Không, tôi có giận gì đâu.

Nàng tiếp tục đan. Một lúc sau, người đàn bà tỉnh táo hẳn:

- Cô cầm kim không được đúng lắm.

Và bà ta chỉ Ruth cách đan cho được mau hơn. Ruth nhìn lên bắt gặp một
nụ cười trên môi người bịnh. Bà ta tiếp tục đan một lúc lâu rồi trao lại
cho Ruth:

- Đó, cô cứ làm giống như vậy…

Brosse trở về buổi tối. Ông ta không khỏi lấy làm lạ khi thấy mặt vợ ửng hồng đôi chút.

- Em ngủ hả...

- Không, chỉ nằm nghỉ.

- Cô Holland về lúc nào...

- Mới cách đây vài phút.

Thình lình bà nắm lấy tay chồng:

- Anh, có kiếm được việc làm không...

- Chưa, nhưng chắc chắn là phải có.

Người đàn bà nín lặng khá lâu và thở dài:

- Em trở thàng gánh nặng cho anh.

Brosse tròn mắt:

- Lucie, sao em nói vậy... Không có em thì anh sống làm gì...

Ông ta ngồi xuống vuốt tóc vợ:

- Em đừng nghĩ nhiều mệt óc. Thế nào rồi cũng hết bệnh mà. Anh yêu em lắm, đừng nói dại anh buồn.

- Không ai có thể yêu một người đàn bà bịnh.

Brosse cười buồn:

- Phải yêu gấp đôi chớ. Bởi vì đó vừa là một người đàn bà vừa là một đứa bé.

Nước mắt người đàn bà ràn rụa:

- Anh còn yêu em không, Oho...

Brosse ôm lấy mặt vợ:

- Yêu và yêu gấp ngàn lần. Yêu đến nỗi anh còn ghen cả với cái giường mà
em đang nằm. Em phải nằm trong trái tim, trong huyết quản của anh…

- Oho…

- Lucie…

Brosse hôn môi vợ. Vành môi nhợt nhạt, lạnh căm của người bịnh từ từ nóng ấm ra.

Kern vẫn chưa tìm ra được việc làm. Anh tới khắp chỗ nhưng chẳng có nơi nào nhận dầu chỉ xin làm với giá hai mươi quan mỗi ngày.

Qua mười lăm hôm, tiền hết sạch. Họ phải sống nhờ vào tiền cứu trợ: mỗi
tuần khoảng năm mươi quan. Kern điều đình với bà chủ xin giữ lại hai
phòng đang ở với khỏan tiền đó, được thêm một ít cà phê và bánh mì buổi
sáng.

Kern phải bán áo choàng, cái vali và tất cả những món của Potzloch cho.
Kế đó, họ lại phải bán tới một vài món nữ trang của Ruth và một ít áo
quần còn khá tốt. Tuy thế, họ không thấy có gì quá thảm khổ. Dầu sao, họ
cũng đang sống giữa Ba Lê, vậy là đủ lắm rồi.

Một chiều chủ nhật, Marill đưa họ vào Viện Bảo tàng Louvre, đó là ngày vào cửa khỏi phải trả tiền. Ông ta bảo:

- Các người cũng nên làm một cái gì để giết thì giờ giữa mùa đông. Các
vấn đề lớn của đám di dân là sự đói khát, nơi trú ngụ và cách sử dụng
thì giờ quá thừa thãi vì không được quyền làm việc mà ra. Sự đói khát và
ưu tư là hai kẻ thù sinh tử cần phải chống cự quyết liệt, nhưng thời
gian nhàn rỗi và vô dụng lại là một địch thủ đáng sợ. Nó lén lút tiến
tới từ phía sau để gặm nhấm nghị lực và làm cho tinh thần tan rã. Cô cậu
còn trẻ không nên la cà ở các quán, đừng tự than trách cũng đừng để bị
xâm chiếm bởi những ý nghĩ chán chường. Mỗi khi thấy tinh thần xuống
thấp hãy đến viếng phòng chờ đợi lớn nhất của Ba Lê: Viện Bảo tàng
Louvre. Mùa đông ở đây ấm lắm. Thả hồn chìm đắm trước một Delacroix, một
Rambrandt hay một Van Gogh còn hơn là thừ người trước một ly rượu.
Chính tôi, Marill, đã khuyên cô cậu như thế, và chỉ có trời mới biết là
Marill thích ngồi trước một ly rượu hơn.

Họ đi khắp phòng triển lãm đồ sộ của Louvre, họ đi qua nhiều thế kỷ, gặp
gỡ các nhà vua Ai Cập bằng đá chạm, đứng trước các vị thần Hy Lạp và
những Hoàng đế La Mã, họ chiêm ngưỡng những bàn thờ Babylone, ngắm nghía
những tấm thảm Ba Tư, say sưa trước những họa phẩm lừng danh của các
bậc thầy như Rembrandt, Goya, Le Greco, Leonard de Vinci, Durer, và cuối
cùng họ tới phòng triển lãm của phái ấn tượng.

Những họa cảnh của Cézanne, Van Gogh và Monet, những vũ nữ của
Degas…chosi sáng trên tường. Tất cả đều yên lặng, chẳng có sự hiện diện
của ai ngoài họ ra. Kern và Ruth có cảm tưởng như đang ngồi bên những
cửa sổ mở toang ra trước những cảnh sắc xa xăm, những khu vườn có vết
tích của sự yêu đời, của những cảm giác mênh mông, những giấc mơ cao cả…
và nơi đó linh hồn không bị hủy diệt, cảnh trí không bị chi phối bởi
chế độ độc tài, bởi sự sợ hãi, bởi những luật lệ bất công.

Marill trầm ngâm một lúc lâu rồi nói giọng đều đều:

- Toàn là những di dân! Họ là những di dân. Bị săn đuổi, trục xuất, vô
gia cư, một số đã phải kéo lê cuộc sống trong bùn, sống trong cơ cực và
chết trong thảm khổ, nhưng hãy nhìn những gì họ đã sáng tạo kia! Đó là
văn mình thế giới! Tôi chỉ muốn các người nhận thấy thế thôi.

Ông ta tháo kính ra lau:

- Cô cậu có cảm tưởng gì...

Ruth đáp ngay:

- Những họa phẩm nầy cho tôi cái cảm tưởng bình yên.

- Bình yên. Tôi nghĩ là cô muốn nói tới vẻ đẹp. Mà cũng đúng, ngày nay
sự bình yên đồng nghĩa với vẻ đẹp. Nhứt là đối với chúng ta. Còn Kern...

- Tôi muốn có được một tấm để lấy tiền mua được thực phẩm.

Marill nhìn Kern:

- Tôi muốn cậu trả lời thật tình hơn.

Kern vẫn giữ ý trước:

- Tôi biết nói thế là điên. Nhưng lúc nầy tôi đang nghĩ tới một cái áo ấm cho Ruth giữa mùa đông.

Ruth đứng sát vào Kern, nắm tay anh.

Marill đeo kính vào:

- Con người ở những điểm cuối có thể là nên điều vĩ đại cho nghệ thuật,
cho tình yêu mà cũng có thể đi tới chỗ tận cùng của sự ngu dại, hận thù
và ích kỷ. Nhưng điều mà nhân loại còn đang thiếu thốn chính là một lòng
tốt bình thường.

Kern và Ruth vừa ăn tối xong. Bữa ăn chỉ có bánh mì và cacao. Đó là thực
đơn duy nhứt của họ từ tám ngày qua ngoại trừ một tách cà phê và hai
cái bánh mì sừng buổi sáng do bà chủ lữ quán cung cấp. Kern cười với
Ruth:

- Lạ quá, mình ăn bánh mì mà nghe mùi bít - tết.

- Còn em thì lại nghe mùi thịt gà. Thịt gà quay có củ cải thật tươi.

- Thịt gà hả... Vậy cho anh một miếng thịt gà đi.

Ruth vừa cười vừa chuyển sang dĩa Kern một mẩu bánh mì:

- Đó, em nhường anh cái đùi.

Kern cười lớn:

- Ruth, nếu không có em bên cạnh chắc tối ngày anh phải cãi lộn với Trời.

- Và nếu không có anh thì em phải lên giường nằm khóc.

Có tiếng gõ cửa. Kern ngỡ là Brosse trong khi Ruth nói to:

- Mời vào!

Cửa mở ra. Kern nhìn lên và sửng sốt kêu:

- Uûa! Có đúng thế không hay là tôi đang nằm mơ… Steiner, anh đó phải không... Trời ơi, Steiner, đây rồi.

Steiner cười:

- Xin lỗi Ruth, tôi tới hơi đột ngột khiến cô cậu mất vui. Nhờ gặp Marill ở tầng dưới nên tôi mới biết hai người ở đây.

Kern hỏi:

- Anh từ Vienne tới phải không...

- Từ Vienne. Sau khi đi vòng qua Morat.

Kern lùi lại một bước:

- Sao... Anh có qua Morat à...

Ruth cười và giải thích:

- Morat là nơi gây tai họa cho chúng tôi. Ở đó tôi bị bịnh còn Kern thì bị bắt.

Steiner cười khoan khoái:

- Chính vì vậy mà tôi tới đó. tôi đã trả thù cho cô cậu rồi.

Anh lấy từ trong bóp ra sáu mươi quan Thụy Sĩ và nói tiếp:

- Số tiền nầy tương đương với 14 Mỹ kim hoặc ba trăm năm mươi quan Pháp. Quà tặng của Ammers đó.

Kern trố mắt:

- Ammers... Ba trăm năm mươi quan... Cái gì vậy...

- Để tôi nói rõ sau. Cứ lầy tiền đi. Và bây giờ thì để nhìn cô cậu coi… má hóp, thiếu ăn, chỉ uống cacao không, có đúng chưa...

Kern cười ngượng ngịu:

- Chỉ mới đúng một nửa thôi. Thỉnh thoảng Marill còn đãi cho một bữa ăn
đúng vào lúc chúng tôi sắp sửa kêu than. Dường như ông ta có giác quan
thứ sáu

- Ông ta còn có một giác quan khác nữa. Đó là giác quan hội họa. Marill có đưa tới Viện Bảo tàng Louvre chưa...

Ruth đáp:

- Có. Chúng tôi đã được xem Cézanne, Van Gogh, Manet, Renoir và Degas.

- A, phái ấn tượng. Như vậy là cô cậu đã được ông ta mời điểm tâm. Sau
bữa ăn, ông ta dẫn đi xem, có đúng không... Mà thôi, mau lên, mặc đồ
vào. Các quán ăn Ba Lê đang đợi chúng mình.

- Nhưng chúng tôi vừa mới…

Steiner ngắt lời:

- Biết rồi nhưng cứ thay quần áo đi. Tiền nhiều quá, phải xài cho đã.

- Nhưng chúng tôi đã mặc đồ rồi đây.

- Ờ há! Vậy là hai người đã bán áo choàng rồi phải không... Thôi cũng được. Mình sẽ nói chuyện đó sau.

Sau bữa ăn, Steiner bảo:

- Bây giờ thuật lại cho tôi nghe những gì đã xẩy ra.

Kern nói một hơi dài:

- Ba Lê thật là lạ. Đây chẳng những là thành phố của nước hoa, của xà
bông thơm mà còn là thành phố của kẹp tóc, dây giày, nút áo. Ngoài ra,
tôi còn làm nhiều thứ khác như khuân vác trái cây, bán đồ chơi trẻ em,
cuối cùng chẳng kiếm được bao nhiêu. Ruth làm việc cho một văn phòng
được mười lăm hôm thì văn phòng đóng cửa, người ta không chịu trả tiền.
Lại phải xoay ra đan áo len. Tiền bán chỉ vừa đủ mua len đan áo khác…
Chính vì vậy mà tôi đi dạo thành phố Ba Lê như một người Mỹ giàu có,
không cần mặc áo choàng.

Steiner đốt một điếu thuốc:

- Cô cậu bán áo choàng hay là cầm...

- Cầm trước rồi bán sau.

- Có tới quán Maurice lần nào chưa...

- Chỉ tới quán Alsace thôi.

- Được. Vậy thì mình tới Maurice. Ở đó có Dickmann. Hắn biết đủ thứ kể
cả vấn đề áo choàng. Nhân tiện tôi sẽ hỏi hắn xem có việc gì làm tại hội
chợ Quốc tế sắp khai mạc hay không.

- Hội chợ Quốc tế hả...

- Đúng vậy. Mình có thể tìm việc làm ở đó không sợ bị hỏi giấy tờ.

Kern hơi ngạc nhiên:

- Anh tới Ba Lê bao lâu rồi... Sao anh biết hết vậy...

- Mới bốn hôm. Tôi tìm ra cô cậu là nhờ Klassmann. Tôi gặp ông ta ở sở
Cảnh sát. Nói xin cho cô cậu biết là tôi đã có giấy thông hành. Vài hôm
nữa tôi sẽ tới ở khách sạn Quốc Tế. Cái tên này rất hợp với tôi.
Về Đầu Trang Go down
https://duonghoalac-hoabinh.forumvi.com
Admin
Admin
Admin
Admin

Tổng số bài gửi : 1754
Điểm : 6794
Ngày tham gia : 22/12/2010
Tuổi : 38
Đến từ : Hà Nội
Level: 38 Kinh nghiệm: 1754%
Sinh mệnh: 1754/100
Pháp lực: 38/100

NGƯỜI ĐIỀU HÀNH
Phù hiệu: Bản du ca cuối cùng - Erich Maria Remarque POLLICE

Bản du ca cuối cùng - Erich Maria Remarque Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Bản du ca cuối cùng - Erich Maria Remarque   Bản du ca cuối cùng - Erich Maria Remarque Icon_minitimeThu Apr 14, 2011 7:52 pm

Chương 18

Họ quây quần trong một quán ăn của hội chợ Quốc tế. Đó là ngày phát lương. Kern sắp những tờ giấy bạc mỏng lên trên dĩa ăn:

- Chỉ một tuần tôi lãnh được hai trăm bảy mươi quan! Đây là lần thứ ba! Đúng là chuyện trên trời rơi xuống.

Marill nhìn Kern, cười khoan khoái. Ông ta cụng ly với Steiner:

- Nào, chúng mình uống với nhau chứ Huber! Tổ tiên chúng ta run rợ khi
có sấm chớp, nhưng thế hệ sau đó thì run sợ trước đao kiếm và bịnh tật.
Bây giờ bọn mình run sợ trước mảnh giấy in. Dầu đó là giấy của ngân
hàng, hay là giấy thông hành. Trước kia, dân Neandertal giết người bằng
côn chùy, dân La Mã bằng gươm kiếm, thời trung cổ con người chết về bịnh
dịch… Tới thời đại văn minh này thì chỉ cần một mảnh giấy cũng đủ loại
bỏ bọn mình ra.

Kern nhìn những tờ giấy bạc trên dĩa:

- Hoặc là nhờ những mảnh giấy đó mà chúng mình sống lại.

Marill liếc xéo Kern. Steiner hỏi ông ta:

- Bạn thấy thằng bé thế nào... Có tiến bộ không...

- Khá lắm. Dường như nó thích hợp với khí hậu nước ngoài. Bây giờ nó
cũng biết chơi chữ. Mới cách đây mấy tháng nó còn gần như còn đòi bú.

Steiner cười:

- Sống trong thời đại nhiễu nhương, con người rất dễ ngã quỵ nhưng cũng sớm già dặn.

Marill uống một ngụm rượu chát. Steiner quay sang Kern:

- Bỏ tiền vào túi đi, bé con, kẻo nó bay mất.

Kern hỏi:

- Bữa nay, các gian hàng mở cửa tới mấy giờ...

- Chi vậy...

- Hỏi cho biết. Bữa nay là ngày lễ mà.

Marill đáp:

- Tới bảy giờ, Kern. Bộ muốn mua rượu mạnh để uống tối hả...

- Không, không phải mua rượu. Tôi muốn tới Salomon Levi. Chẳng biết giá cả trong những lúc nhiễu nhương như thế này ra sao...

- Trong những thời kỳ nhiễu nhương, vật giá đều tăng. Điều quan trọng là phải biết mặc cả.

Một giờ đêm, Steiner, Maill, Ruth và Kern còn ngồi ở quán Mère Margot. Bàn ghế đang được gom lần vào góc.

Steiner gọi một gã hầu bàn đang quét dọn lại tính tiền và nói với Marill:

- Chúng mình đi là vừa. Cha Morizt vừa tới hôm nay. Mình nên đi thăm ông ấy.

Ruth hỏi:

- Cha Morizt là ai...

- Ông là niên trưởng bọn mình, bảy mươi lăm tuổi. Ông đã đi qua tất cả
các biên giới và thành phố, ông đã sống trong nhiều lữ quán và nhiều nhà
trọ không cần khai báo. Đặc biệt hơn hết là ông đã từng ở tù tại nhiều
nhà giam của năm nước văn minh.

Kern chen vào:

- Tôi biết ông ấy. Chúng tôi đã từng đi chung trong lần vượt biên giới từ Tiệp sang Aùo.

Marill nói thêm vào:

- Còn tôi thì đi với ông lão từ Thụy Sĩ sang Ý.

Kern hỏi gã hầu bàn vừa mang phiếu tính tiền tới:

- Có bán Courvoisier nguyên chai không... Phải cùng một giá như các hàng rượu.

- Ông đợi một chút, để tôi hỏi bà chủ.

Bà chủ quán đang ngủ ngục, trả lời gả hầu bàn bằng một cái gật. Steriner
bỏ chai rượu vào túi áo choàng. Ngay lúc đó cửa quán bỗng mở ra và một
bóng người bước vào. Bà chủ quán che miệng ngáp. Mấy gã hầu bàn lộ vẻ
bất mãn.

Người khách vừa vào đi thẳng một mạch, chẳng nói lời gì, như người thụy
du tới ngay chỗ quầy gà. Aùnh mắt hắn như muốn xuyên thủng những con gà
đang quay đều trên lửa. Hắn hỏi một gã hầu bàn:

- Con này bao nhiêu...

- Hai mươi sáu quan.

- Con kia...

- Hai mươi sáu.

- Con nào cũng hai mươi sáu cả sao...

- Phải.

- Tại sao hồi nãy không nói phức cho rồi...

- Tại ông không hỏi.

Người khách ngước nhìn lên. Có một vẻ gì như giận dữ trên nét mặt thụy du của hắn. Hắn chỉ con gà to nhất:

- Lấy con này.

Kern thúc nhẹ vào tay Steiner. Cả hai ngây người nhìn cảnh tượng trước mắt.

Gã hầu bàn hỏi:

- Lấy xà lách hay khoai tây chiên...

- Không cần. Cho dao và nỉa ra đây.

Kern thì thầm với Steiner:

- Con gà. Đúng là anh chàng con gà bằng xương bằng thịt.

- Đúng là hắn. Con gà của trại giam thành Vienne.

Anh chàng con Gà ngồi trên bàn. Hắn móc bóp ra lấy tiền đếm thật kỹ. Cho
bóp vào túi, hắn cẩn thận mở khăn ra ăn. Trước mắt hắn là con gà quay
béo bóng. Hắn làm dấu thánh giá trịnh trọng như một giáo sĩ. Mắt hắn như
sáng rực lên khi nhấc con gà cho vào dĩa.

Steiner cười bảo nhỏ:

- Mình để cho hắn ăn ngon đừng chọc phá.

Kern nói mau:

- Phần tôi thì tôi muốn chạy ngay. Gặp hắn hai lần trong tù, lần nào hắn
cũng cho biết là sắp sửa ăn gà thì bị bắt. Chắc Cảnh sát sắp tới nơi.

Steiner nheo một mắt:

- Vậy thì dông ngay.

Ra tới cửa, họ ngoái lại nhìn. Anh chàng con Gà đang xé một đùi gà vàng
óng. Hắn đưa cái đùi lên ngang tầm mắt ngắm nghía như một kẻ hành hương
đang chiêm ngưỡng một vị thánh.
Về Đầu Trang Go down
https://duonghoalac-hoabinh.forumvi.com
Admin
Admin
Admin
Admin

Tổng số bài gửi : 1754
Điểm : 6794
Ngày tham gia : 22/12/2010
Tuổi : 38
Đến từ : Hà Nội
Level: 38 Kinh nghiệm: 1754%
Sinh mệnh: 1754/100
Pháp lực: 38/100

NGƯỜI ĐIỀU HÀNH
Phù hiệu: Bản du ca cuối cùng - Erich Maria Remarque POLLICE

Bản du ca cuối cùng - Erich Maria Remarque Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Bản du ca cuối cùng - Erich Maria Remarque   Bản du ca cuối cùng - Erich Maria Remarque Icon_minitimeThu Apr 14, 2011 7:52 pm

Chương 19

Marill bước vào quán ăn riêng của nhân viên hội chợ.

- Steiner, có người muốn gặp bạn.

- Hỏi Huber hay Steiner...

- Steiner.

- Bạn có hỏi hắn về chuyện gì không...

- Có. Hắn bảo muốn trao cho bạn một lá thư từ Bá Linh.

Steiner đứng dựng lên:

- Hắn ở đâu...

- Trước gian hàng Rumani.

- Có thể là một điệp viên không...

- Chắc không phải.

Cả hai cùng đi ra chỗ có người đợi. Đó là một người đàn ông khoảng năm tuổi. Ông ta hỏi:

- Anh có phải là Steiner không...

- Không. Chi vậy.

- Tôi đang giữ một bức thư. Của vợ anh.

Ông ta lấy thơ ra đưa cho Steiner và nói tiếp:

- Chắc anh nhận ra nét chữ...

Steiner cố giữ bề ngoài thật tự nhiên nhưng bên trong anh có một cái gì
đang biến đổi như một chuyển động vòng xoay. Anh không dám đưa tay ra
nhưng bàn tay vẫn tự nó muốn cất lên.

- Sao ông biết Steiner ở Ba Lê...

Người lạ trả lời Marill:

- Có người mang thơ từ Bá Linh tới Vienne.

Ông ta chỉ vào một hàng chữ viết của Lilo “Josef Steiner, Ba Lê” và nói tiếp:

- Tôi kiếm anh luôn nhiều nơi. Hôm qua, tới quán Maurice, người ta chỉ
chỗ nầy. Anh không cần phải xác nhận là Steiner. Tôi hiểu tình cảnh lắm.
Anh cứ nhận thơ, nhiệm vụ của tôi thế là xong.

Steiner thở ra:

- Đúng là thơ gởi cho tôi.

- Tốt lắm…

Người đàn ông lạ trao thơ cho Steiner. Lần nầy anh phải cố gắng lắm mới
đưa được tay ra để lấy thơ. Bức thơ bỗng như nặng trĩu, nặng hơn tất cả
mọi bức thơ trên thế giới.

- Cám ơn ông. Cám ơn ông đã vất vả…

- Chẳng có gì đâu. Trao được thơ cho một người ở tình cảnh của anh là đã quá đủ để tự hài lòng.

Ông ta chào và quay đi.

Steiner nhìn Marill. Giọng anh lạc đi:

- Marill, đây là thơ của vợ tôi. Lá thơ đầu tiên! Chẳng biết có chuyện gì đây.

- Đọc đi.

- Bạn đứng đó đợi tôi. Chuyện gì đây… Sao lại phải viết...

Người anh ta thẳng đơ và bất động như tượng đá trong khi đọc. Đọc tới dòng cuối cùng, mắt hắn bỗng lờ đờ. Lá thơ rơi xuống đất:

- Mười ngày rồi… Vợ tôi nằm nhà thương. Mười ngày rồi… chắc vẫn còn sống.

- Nằm bệnh viện nào... Có nói rõ không...

- Có.

- Mình đi điện thoại ngay. Lấy đại một tên nào đó cũng được.

Steiner hơi lảo đảo:

- Tôi phải trở về đó.

- Khoan. Điện thoại tới bệnh viện trước đã. Mình trở về Verdun đi.

Từ trong phòng điện thoại ra, sau nửa giờ chờ đường đây Bá Linh, người Steiner ướt đẫm mồ hôi. Anh nói như mơ:

- Vẫn còn sống.

- Có nói chuyện trực tiếp với nhau không...

- Không. Chỉ nói được với bác sĩ. Tôi nhận là thân nhân. Bác sĩ cho biết
tình trạng đã hết cứu chữa mặc dầu đã giải phẫu rồi. Chính vì vậy mà
nàng viết cho tôi.

Anh ta cầm lá thơ trong tay, nhìn quanh như tìm chỗ bám víu:

- Marill, đêm nay tôi đi Bá Linh.

Marill trợn mắt:

- Điên hả...

- Không sao đâu. Tôi có giấy thông hành.

- Giấy thông hành trong trường hợp của bạn chẳng ích lợi gì. Chúng nó sẽ nhận diện được ngay. Bạn biết chớ...

- Biết.

- Đi như vậy cũng chẳng đâm đầu vào hang cọp.

- Tôi cũng biết vậy, nhưng nàng chết, tôi không thiết sống.

Marill chợt giận dữ, hét lớn:

- Steiner, bạn có ngu không... Viết thơ gởi về hay điện thoại mỗi giờ cũng được nhưng phải ở lại đây.

Steiner lắc đầu với vẻ ngây dại. Marill chụp vai anh:

- Bạn không được đi, nghe chưa... Có đi cũng không giúp ích được gì.

- Ít ra tôi cũng nhìn được mặt vợ tôi.

- Không thể được, bạn không thể chết một cách vô lý như thế. Đây, bạn
lấy hết tiền của tôi đi cộng với tiền của bạn và hãy lấy luôn tiền của
Kern. Cứ gởi điện tín về bên đó, gởi dài mấy trang cũng được nhưng bạn
phải ở lại đây.

Steiner lắc đầu:

- Tôi phải về mới được.

Marill chụp tay Steiner lôi đi:

- Đi, mình lại đằng nầy uống vài chai. Cứ uống cho thật say. Tôi hứa với
bạn là cứ vài giờ tọi sẽ điện thoại thay cho bạn một lần.

Steiner vung tay khiến Marill lảo đảo:

- Bạn đừng nói gì nữa cả, Marill. Tôi hiểu rõ tình hình, tôi không điên
đâu. Dầu nguy hiểm gấp ngàn lần tôi vẫn cứ đi. Bạn không hiểu sao...

Marill hét lên:

- Tại sao không... Ở địa vị bạn tôi cũng làm như thế.

Steiner sửa soạn hành lý. Anh sang phòng Kern. Cả Kern và Ruth đều nghe Marill thuật lại. Họ đang đợi Steiner.

Steiner vừa bước vào đã cất giọng bô bô, làm ra vẻ bình thản:

- Tôi đi đây. Thế nào tôi cũng tới đó an toàn. Chắc không lâu mình sẽ gặp lại nhau.

Anh quay sang cười với Ruth:

- Tạm biệt cô bé.

Ruth vừa bắt tay Steiner vừa khóc:

- Tôi có nhiều chuyện định nói với anh, Steiner. Nhưng bây giờ thì không biết phải nói gì nữa.

Ruth đưa cho anh một chiếc áo len đen:

- Anh mang áo nầy theo. Tôi vừa mới đan xong hôm nay.

Steiner cười buồn nhưng chỉ trong khoảnh khắc đã lấy lại tự nhiên:

- Cám ơn cô bé lắm. Còn Kern nữa, tạm biệt.

Kern cũng muốn nói thật nhiều nhưng quá xúc động, anh chỉ tóm gọn trong một câu:

- Không có anh, có lẽ tôi chẳng còn sống tới ngày nay.

- Sống mạnh chớ. Nhưng dầu sao ý nghĩ đó của cậu làm tôi rất hài lòng.
Ít ra tôi cũng làm được một cái gì cho một người trẻ tuổi.

Ruth đã nín khóc:

- Trở lại nghe anh. Tôi chỉ có thể nói được thế thôi. Hãy quay về với chúng tôi. Chúng tôi không thể nào quên anh được.

Steiner cười:

- Tốt lắm. Thôi, cô cậu ở lại mạnh giỏi.

Kern đứng lên:

- Tôi đưa anh ra ga.

Steiner do dự:

- Mariil sẽ đi với tôi. Nhưng cũng được. Chúng mình cùng đi.

Ra tới đường, Kern nói với Steiner:

- Anh đưa vali tôi xách cho.

- Chi vậy...

Kern cười gượng:

- Cứ đưa tôi. Tôi sẽ cho anh thấy là lúc này tôi khỏe lắm, nhất là chiều nay.

Steiner nhìn ra khoảng không:

- Phải rồi. Chiều nay… sao mà xa quá!

Họ tới nhà ga vừa lúc xe lửa sắp sửa khởi hành. Steiner lên xe, kéo cửa
kính xuống. Xe chưa chuyển bánh. Nhưng những người đứng trên bến có cảm
tưởng là Steiner xa rời họ lần cuối. Kern nhìn đăm đăm vào khuôn mặt quả
cảm của người anh gió bụi như muốn ghi khắc lấy những đường nét đó cho
mãi mãi. Khuôn mặt đó đã từng ở bên anh trong những tháng năm dài, đó
cũng là khuôn mặt của một bậc thầy đã trui rèn anh trở nên cứng rắn
trong cuộc sống lưu đày.

Xe chuyển bánh. Không ai nói một lời. Steiner từ từ đưa tay lên. Đứng
lại trên bến, những cặp mắt buồn thảm nhìn theo cho tới khi mất hút.

Về tới phòng, Kern đứng lặng im một lúc lâu rồi thở dài:

- Ruth, dường như cả thành phố đều đã chết.

Kern đang đẩy một chiếc xe chở đất tới chỗ Marill thì bị hai người ngăn lại. một người nói với Kern:

- Xin lỗi, chúng tôi cần nói chuyện.

Kern đặt càng xe xuống. Anh biết chuyện gì sắp xảy ra. Giọng nói của
người lạ là giọng nói mà anh đã từng sợ hãi mỗi khi nghe tới. Đó là
giọng nói vừa lịch sự nhưng cũng vừa lạnh như thép.

- Ông vui lòng cho chúng tôi xem giấy tờ.

Kern đáp:

- Tôi không mang theo.

Marill nói với người vừa hỏi Kern:

- Ông có vui lòng cho chúng tôi xem thẻ hành sự không...

- Được lắm. Đây, xin mời ông xem. Tôi là Cảnh sát còn đây là kiểm soát
viên của Bộ Lao Động. Xin lỗi, chúng tôi phải làm phiền các ông vì dân
Pháp thất nghiệp bắt buộc chúng tôi phải kiểm soát…

Marill nói:

- Vâng, tôi hiểu. Nhưng rất tiếc, tôi chỉ có thẻ lưu trú mà không có giấy phéo hành nghề, chắc mấy ông cũng vui lòng…

Viên chức kiểm soát của Bộ Lao Động nhã nhặn nói với Marill:

- Được, xin ông cứ tiếp tục làm việc. Chánh phủ chúng tôi không qua khắt
khe nhất là đối với công việc xây cất Hội chợ Quốc Tế. Xin lỗi đã làm
phiền ông.

- Không dám…

Viên chức nầy quay sang hỏi Kern:

- Ông vui lòng cho xem căn cước.

- Thưa, không có.

- Ông không có giấy tờ gì cả sao...

- Không.

- Như vậy là ông nhập cảnh lậu phải không...

- Tôi không còn cách nào khác hơn.

Viên chức cảnh sát lên tiếng:

- Rất tiếc phải làm phiền ông. Xin mời ông cùng về trụ sở với chúng tôi.

Kern nhìn Marill:

- Nói dùm với Ruth là tôi bị bắt. Tôi sẽ trở lại. Bảo Ruth đừng lo gì cả.

Nghe Kern nói tiếng Đức, viên chức kiểm soát lịch sự bảo:

- Các ông có thể nói chuyện với nhau thêm vài phút nữa. Chúng tôi sẵn sàng đợi ở đây.

Marill nói với Kern cũng bằng tiếng Đức:

- Tôi sẽ lo cho Ruth đến khi cậu trở lại đây. Nên làm cách nào để họ đẩy
ra biên giới Bâle rồi tìm đường trở về qua ngõ Burgfelden. Gọi điện
thoại Steiff ở Saint - Louis, kêu taxi đi Mulhause rồi từ đó sẽ đi
Belfort. Đó là hành trình tương đối an toàn. Nếu bị tù thì viết thư ngay
cho tôi. Klassmann sẽ lo cho. Bây giờ tôi đi gọi điện thoại cho ông ta.

Kern gật đầu nói với người cảnh sát:

- Thưa ông, xong rồi.

Viên chức kiểm soát nhìn Marill cười và nói bằng tiếng Đức:

- Các ông có một lối chia tay khá đẹp. Dường như các ông hiểu quá rành biên giới của chúng tôi.

Marill cười gượng:

- Vâng, nhưng biết sao.

Lúc xe ngừng lại trạm kiểm soát biên giới, tinh thần Steiner vụt căng
thẳng. Nhân viên quan thuế Pháp chỉ xem qua giấy thông hành đóng dấu lên
rồi quay đi ngay. Xe lăn bánh từ từ.

Một lát sau, hai viên chức Đức tới. Họ chào Steiner:

- Ông vui lòng cho xem thẻ thông hành.

Steiner đưa thẻ cho người trả vừa hỏi hắn.

- Ông sang Đức làm gì...

- Thăm gia đình.

- Ông sống ở Bâle...

- Không, tôi ở Gratz. Tôi tới Bâle thăm người bạn.

- Ông định ở lại Đức bao lâu...

- Khoảng mười lăm hôm. Tôi sẽ trở về Gratz.

- Ông có mang ngoại tệ không...

- Có. Năm trăm quan.

- Như vậy chúng tôi phải ghi vào thông hành.

Người lớn tuổi ghi vài dòng trên thông hành rồi đóng dấu. Viên chức trẻ liếc mắt qua chiếc vali của Steiner rồi nói:

- Ông có mang báo chí, sách vở hay ấn phẩm nào không...

- Không.

Viên chức trẻ trả giấy thông hành lại cho Steiner. Cả hai cùng chào rồi quay ra. Steiner thở phào. Cả người anh đẫm mồ hôi.

Xe bắt đầu chạy nhanh. Steiner nhìn ra cửa sổ. Trời đã tối hẳn, những
đám mây thấp lửng lơ bay vượt qua những vì sao nhấp nháy. Steiner hạ cửa
kính xuống. Gió từ ngoài thổi vào mang theo hơi ẩm. Anh hít thở thật
dài hơi. Không khí dường như đổi khác, gió dường như không cùng một mùi
vị, chân trời cũng lạ đi, ánh sáng cũng dị thường, hàng bạch dương hai
bên đường nghiêng ngửa. Tuy thế, có một cái gì quen thuộc, xưa cũ, hình
như đó là những con đường cùng đi về một hướng chạy thẳng vào tim anh.
Anh lại thở dài hơi, tự cảm thấy như đang sốt, máu chạy nhanh hơn.
Steiner nghĩ thầm, sao mình lại lạ thế này, mình lại đa cảm rồi sao...
Anh ngồi xuống cố nhắm mắt để ngủ nhưng không được. Cảnh sắc ảm đạm bên
ngoài cứ lôi cuốn anh, dựng dậy những khuôn mặt và nhiều kỷ niệm. Những
năm chiến tranh dễ sợ chợt hiện ra khi xe

qua cầu sông Rhin.

Anh ta đốt hết điếu thuốc này đến điếu khác, anh đi đi, lại lại trong
căn phòng nhỏ của toa xe. Anh cố nghĩ tới ngày mai, nghĩ tới việc phải
làm thế nào để qua mắt nhà chức trách, nghĩ tới bệnh viện vợ đang nằm,
tới tình cảnh của chính mình, tới những bạn bè mà có thể đến thăm…

Nhưng bây giờ, tất cả những điều đáng nghĩ đó đều trôi tuột ra xa. Ngay
cả sự nguy hiểm đang đe dọa hắn cũng trở thành mờ ảo. Kỷ niệm, nhiều kỷ
niệm xoay quanh anh như một cơn lốc, như một vũ khúc ma quái để chào đón
anh trên đường về nước.

Anh cố gắng để đừng suy nghĩ nữa nhưng rồi đành chịu thua.

Trời đêm trải dài vô tận. Màn đêm như phủ xuống bốn mươi năm của một đời
người. Những ngôi làng với những ánh đèn thấp thoáng xa xa và những
tiếng chó sủa đâu đó làm anh nhớ tới thời thơ ấu. Anh đã sống trong
những ngôi làng như thế. Anh đã đi đó đi đây vào những mùa hè và mùa
đông, lòng rộn rã với tiếng chuông giáo đường. Những khu rừng chạy ngược
qua mau bên ngoài cửa xe cũng gợi nhớ tới những chuyến mạo hiểm đầu
tiên của tuổi thơ.
Về Đầu Trang Go down
https://duonghoalac-hoabinh.forumvi.com
Admin
Admin
Admin
Admin

Tổng số bài gửi : 1754
Điểm : 6794
Ngày tham gia : 22/12/2010
Tuổi : 38
Đến từ : Hà Nội
Level: 38 Kinh nghiệm: 1754%
Sinh mệnh: 1754/100
Pháp lực: 38/100

NGƯỜI ĐIỀU HÀNH
Phù hiệu: Bản du ca cuối cùng - Erich Maria Remarque POLLICE

Bản du ca cuối cùng - Erich Maria Remarque Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Bản du ca cuối cùng - Erich Maria Remarque   Bản du ca cuối cùng - Erich Maria Remarque Icon_minitimeThu Apr 14, 2011 7:52 pm

Chương 20

Steiner tới nơi lúc mười một giờ trưa. Anh gởi vali tại
nhà ga và đi thẳng tới bệnh viện. Anh không có thì giờ nhìn thành phố,
anh chỉ thấy những đợt sóng người và xe cộ cùng những dãy nhà.

Anh dừng lại trước một tòa nhà đồ sộ trắng, do dự một lúc. Anh nhìn cái
cổng rộng lớn và những dãy cửa sổ ở các tầng lầu cao. Một chỗ nào trên
đó… nhưng có chắc không... Anh mím môi bước vào.

Hắn hỏi cô thư ký:

- Xin cô vui lòng cho biết giờ thăm bệnh.

- Hạng mấy...

- Không rõ. Tối mới tới đây lần thứ nhứt.

- Ông muốn thăm ai...

- Bà Marie Steiner.

Anh ngạc nhiên khi thấy cô thơ ký vẫn dửng dưng lật sổ. Anh đã tưởng
tượng là trần nhà sẽ đổ xuống hoặc nữa người y tá ngồi ở bàn giấy sẽ
nhảy dựng lên chạy ra ngoài hô hoán khi nói tới tên Steiner.

Cô y tá vẫn tiếp tục lật sổ vừa dò tìm vừa nói:

- Nếu nằm phòng hạng nhất thì được thăm suốt ngày.

- Chắc không phải hạng nhất. Có thể là hạng ba.

- Giờ thăm ở hạng ba là từ ba giờ đến năm giờ.

Cô y tá tiếp tục tìm:

- Lúc nãy ông nói tên gì...

- Steiner, Marie Steiner.

Steiner cảm thấy cổ họng như khô đắng. Anh nhìn chăm chăm vào khuôn mặt
búp bê của người nữ y tá. Anh chờ cô ta nói tiếng “Đã chết”.

- Đây, Marie Steiner, hạng nhì, phòng 505, lầu 5. Giờ thăm là từ ba tới sáu.

Steiner mừng rỡ:

- 505. cám ơn, cám ơn cô nhiều lắm.

Tuy nhiên anh vẫn còn đứng đó. Chuông điện thoại reo, cô y tá vừa nhấc máy vừa hỏi:

- Ông còn cần gì không...

- Bà Steiner còn sống hay đã chết...

Cô y tá đặt máy xuống. Chuông tiếp tục reo. Cô ta trả lời:

- Dĩ nhiên là còn sống. Nếu không thì phải có lời phụ chú bên cạnh tên.

- Cám ơn cô.

Steiner phải cố gắng lắm mới không hỏi là có thể lên thăm được ngay bây giờ không.

Anh đi lang thang qua nhiều con đường vòng khu bệnh viện. Thình lình,
anh sợ bị nhận diện. Anh không sợ cho mình mà chỉ sợ bị bắt trước khi
nhìn mặt vợ. Anh tìm một quán nhỏ trên con đường vắng nào đó ngồi chờ
tới giờ thăm. Anh gọi thức ăn nhưng không nuốt nổi.

Gã hầu bàn ngạc nhiên:

- Ông ăn không vừa miệng...

- Không. Ngon lắm. Cho tôi một ly Kirsh.

Steiner cố nuốt trôi bữa ăn rồi hỏi mua một tờ báo và gói thuốc. Anh cố
đọc báo để quên thì giờ nhưng rồi cũng không đọc nổi. Anh tưởng tượng là
Marie đang lịm chết ngay trong lúc nầy, thấy mặt vợ ướt đẫm mồ hôi vì
đau đớn trước khi chết. Anh phải hết sức tự chủ mới không đứng lên chạy
thẳng tới bệnh viện. Kim đồng hồ từ từ xê dịch như cánh tay định mệnh
muốn làm hắn nghẹt thở bằng sự chậm chạp, nặng nề.

Anh ném tờ báo qua một bên rồi đứng lên. Gã hầu bàn đang đứng xỉa răng, thấy khách rời bàn gã tới gần hỏi:

- Thưa, tính tiền...

- Không, cho một ly bia nữa.

Gã hầu bàn rót cho hắn một ly bia. Anh mời:

- Bồ cũng uống một ly đi.

- Cám ơn.

Gã hầu bàn rót ngay cho mình một ly bia rồi nâng ly lên với hai ngón tay:

- Kính ông.

Uống xong, Steiner hỏi:

- Bồ biết chơi bi da không...

Gã hầu bàn nhìn cái bàn bi da cũ kỹ nằm ở giữa phòng.

- Dạ, chỉ biết sơ sơ.

- Mình làm một bàn chơi.

- Dạ, chắc ông đánh khá lắm.

- Bỏ lâu rồi. Thử dợt lại xem sao.

Bàn đầu, Steiner thắng điểm khá xa. Gã hầu bàn đề nghị:

- Ông chơi cừ lắm. Chấp tôi mười điểm đi.

- Cũng được.

Steiner tự bảo nếu bàn nầy mình thắng thì Marie vẫn còn sống và có thể sẽ lành bịnh…

Anh cố đánh kỹ từng cơ và lại thắng. Bàn thứ ba chấp luôn hai mươi điểm.
Anh chăm chú đánh. Còn mấy điểm sau cùng, mắt anh như rách ra, tay run
lẩy bẩy, nhưng anh cố gắng và cuối cùng lại thắng với số điểm suýt soát.

Anh nhìn lại đồng hồ, đã ba giờ hơn. Anh vội vàng trả tiền đi thật mau về phía bệnh viện.

Phải mất một lúc khá lâu anh mới tìm được phòng của vợ. Anh hồi hộp gõ
cửa. Không có tiếng trả lời. Anh gõ cửa lần thứ hai. Dạ dầy anh dường
như bị một bàn tay vô hình siết nghiến. Anh xô cửa vào.

Giữa phòng trong ánh nắng chiều trông như một hòn đảo bình lặng ở một
thế giới xa xôi cũng buồn phiền, thống khổ và dấu vết thời gian dường
như không có bóng dáng ở đây. Một thân người nằm bất động trên giường
đang nhìn anh. Tự nhiên, chân anh như mềm ra, cái nón rơi xuống. Anh
khom mình để lượm nhưng rồi không đứng lên nổi, anh quỳ xuống luôn bên
cạnh giường.

Đôi mắt người đàn bà dán chặt vào mặt anh – đôi mắt vô hồn – nhưng rồi
mô người bệnh từ từ động đậy, ánh sáng trở về với màu mắt nâu bàn tay
trên mép giường sờ soạng…

Steiner kề sát mặt vợ:

- Anh đây Marie.

Người đàn bà cố ngoi đầu lên. Steiner cản lại:

- Đừng, cứ nằm yên. Anh đây mà. Anh vừa trở về.

Người đàn bà thều thào:

- Joseft…

Steiner gục đầu xuống, nước mắt buồn bã trào ra. Anh cắn môi để khỏi bật khóc.

- Anh đây, Marie. Anh trở về bên em.

Người đàn bà thì thầm:

- Nếu họ gặp anh…

- Họ không tìm ra anh đâu. Cho dầu họ có tìm thấy anh cũng vẫn ở đây. Anh ở bên em.

- Sờ mặt em đi, Joseft, để em nhận ra sự hiện diện của anh. Em nằm mơ thấy anh luôn…

Steiner sờ lên trán vợ rồi nắm lấy bàn tay mỏng mảnh kề vào môi. Anh
khom xuống hôn vào đôi môi lạnh. Lúc anh đứng thẳng lên, mặt anh đầm đìa
nước mắt. Nàng lắc đầu, nước mắt rơi xuống như những giọt mưa.

- Em biết là anh không thể trở về. Vậy mà em vẫn mong…

- Anh sẽ ở đây với em.

Marie đẩy nhẹ chồng ra:

- Anh không ở đây được đâu. Anh phải đi. Anh không biết, lúc nầy khó khăn lắm. Đi đi, Josef…

- Không sao đâu.

- Nguy hiểm lắm. Em biết rõ hơn anh. Em đã gặp anh được rồi, thôi đi đi. Em không còn sống bao lâu nữa. Em sẽ tự lo liệu lấy.

- Không. Anh tìm cách để ở lại đây. Thế nào cũng có một ngày đại xá. Trường hợp của anh cũng dễ.

Marie nhìn chồng, không tin tưởng. Steiner nói mau:

- Thật mà. Vả lại cũng không ai biết anh về đây. À, em đã xin ly dị chưa...

- Không. Em không làm được. Đừng giận em.

- Anh chỉ lo cho em thôi, để em dễ sống hơn.

- Em cũng chẳng gặp khó khăn gì. Những người chung quanh đều lo cho em. Nhờ họ mà em nằm được phòng này.

Cửa bật mở, một y tá bước vào. Steiner đứng lên. Cô y tá đặt một ly nước
đầy chất lỏng như màu sữa lên bàn. Vừa liếc nhìn Steiner cô vừa hỏi
Marie:

- Bà có người thăm hả...

Marie cố lay động đầu:

- Từ Breslau tới.

- Xa dữ vậy sao...

Cặp mắt xanh biếc của cô ta lại liếc sang Steiner. Cô ta rút nhiệt kế ra. Steiner hỏi:

- Còn sốt phải không cô...

- Không đâu. Đã hạ sốt nhiều rồi.

Cô ta để nhiệt kế xuống và đi ra. Steiner tới ngồi ở một cái ghế sát giường. Anh cầm lấy hai bàn tay của vợ.

- Anh trở về, em có vui không...

Marie cười:

- Sao anh hỏi lạ vậy...

Hai người nhìn nhau trong im lặng. Họ gần như chẳng còn gì phải nói bởi
vì họ đã được ở bên nhau và chỉ một việc đó cũng quá đủ rồi. Cuộc sống
đã không có dĩ vãng cũng không có tương lai. Tất cả đều là hiện tại.

Cô y tá quay lại, vẽ một đường cong lên bảng ghi nhiệt độ. Steiner và vợ gần như không chú ý. Họ đang mải mê nhìn nhau.

Aùnh nắng chẳng chịu bỏ đi. Một mảnh sáng rơi trên tóc và đọng trên gối
nằm của Marie như một con mèo óng ánh nép mình trên gối người bệnh.

Cửa lại mở ra, một bác sĩ cùng người nữ y tá bước vào. Cô y tá nói với Steiner:

- Hết giờ thăm bệnh rồi.

Steiner đứng lên:

- Mai anh trở lại, Marie.

Nàng nằm đó như một đứa bé mệt mỏi sau một cuộc đùa vui, nửa lả người, nửa mơ màng.

- Dạ, mai anh lại.

Steiner đứng bên ngoài đợi bác sĩ ra. Anh hỏi xem vợ còn có thể sống được mấy hôm. Ông ta nhìn anh như dò xét:

- Còn ba hay bốn hôm nữa. Không hiểu tại sao bà ấy lại còn có thể chịu đựng lâu đến thế.

Steiner cám ơn và bước xuống lầu. Tới cổng, dừng lại, như một bất ngờ,
thành phố hiện ra trước mắt anh, rõ ràng và gọn ghẽ. Anh nhìn thấy những
con đường, nhìn thấy sự đe dọa câm lặng đang rình rập ở mỗi góc đường,
sau mỗi cánh cửa, dưới mỗi bộ mặt. Nơi mà anh có thể bị bắt trói như con
dã thú là tòa nhà đá trắng sau lưng. Ba hay bốn đêm là cả một thời gian
vô tận. Anh nghĩ tới việc đến nhà một người bạn nhưng rồi lại đi tìm
một khách sạn bình dân.

Kern dừng sững ngay cửa nhà giam. Anh nói qua hơi thở đứt đoạn:

- Ruth, sao em ở đây... Em cũng bị bắt sao...

- Không phải, Ludwig.

Kern nhìn mau sang viên Giám thị đang ngồi dựa trong góc, không chú ý gì tới họ. Anh tới gần Ruth, nói nhỏ bằng tiếng Đức:

- Ruth, về đi! Em không biết gì cả. Bị bắt lần nầy là bốn tuần, tù giam, lần sau là sáu tháng. Về ngay đi!

Ruth hốt hoảng:

- Bốn tuần... Vậy anh ở đây tới bốn tuần lễ sao...

- Đối với anh chẳng có gì đáng kể. Với em thì khác. Về đi, họ hỏi giấy bây giờ.

- Em có giấy mà.

- Sao... Em nói gì...

- Em xin được giấy lưu trú.

Nàng lấy giấy đưa cho Kern xem. Kern trố mắt:

- Jésus! Thật vậy sao... Hoàn toàn bất ngờ, không thể tưởng tượng! Ai lo cho em...

- Nhờ ủy ban cứu trợ và Klassmann.

Kern hỏi lớn:

- Thưa ông Giám thị, tù nhân có được phép hôn vợ không...

Người Giám thị uể oải đáp:

- Muốn hôn bao nhiêu cũng được… miễn là vợ anh không chuyền dao, hay giũa qua thôi.

- Có mấy tuần, không ai làm vậy đâu, ông Giám thị.

Anh quay sang Ruth:

- Có được tin gì của Steiner không...

- Không. Marill bảo là anh ấy sẽ trở lại chớ không viết thơ.

- Marill có tin chắc như vậy không...

- Tất cả bọn mình đều tin như vậy, Ludwig.

Kern gật đầu:

- Phải. Mình không thể nghĩ khác hơn. Anh ấy mới đi có tám ngày…

Viên Giám thị bảo:

- Hết giờ rồi.

Kern ôm chầm Ruth. Nàng thì thầm:

- Trở về với em. Tìm mọi cách trở lại. Em có đem tiền theo đây, để dưới cầu vai. Làm bộ hôn em rồi lấy ra.

- Không. Anh còn đủ. Marill sẽ lo cho em. Không chừng nay mai, Steiner trở lại.

Viên Giám thị giục:

- Tới giờ rồi. Không ai đem máy ra chém đâu…

Ruth hôn Kern:

- Ráng giữ sức khỏe. Nhớ trở lại sớm với em.

- Mai anh trở lại, Marie.

Steiner cúi xuống hôn vợ và đứng thẳng lên.

Cô y tá đang đứng ở cửa. Mắt cô ta lấm lét nhưng không nhìn Steiner. Cái ly trong tay cô ta lay động.

Steiner bước ra hành lang.

- Đứng yên!

Một giọng nói lạnh lùng ra lịnh. Hai bên cửa đã có hai nhân viên mặc sắc
phục, súng lục cầm tay. Steiner đứng lại. Anh không có vẻ gì sợ hãi.

- Tên gì...

- Johann Huber.

- Lại chỗ cửa sổ.

Người thứ ba tới nhìn mặt. Hắn nói gọn:

- Đúng Steiner.

Và nhìn vào mắt Steiner, hắn hỏi giọng khiêu khích:

- Còn nhớ tao không, Steiner...

Steiner thản nhiên:

- Không quên được, Steinbrenner.

- Tốt lắm. Mầy trở về là tao nồng nhiệt tiếp đón ngay. Bọn tao mới xây một cái trại hoàn toàn mới, đầy đủ tiện nghi cho mầy ở.

- Tao cũng muốn tin như vậy.

Steinbrenner ra lịnh:

- Còng nó lại – và hắn làm ra vẻ đau khổ – đừng buồn nghe cưng, thấy mầy bị bắt tao đứt ruột.

Có tiếng cửa khép mạnh. Steiner nhìn nghiêng qua vai. Đó là cánh cửa phòng vợ hắn. Steinbrenner cười khoái chí:

- Tình yêu. Nó kêu gọi **** ác là về tổ để giúp ích quốc gia và bạn bè.

Steiner nhìn sững Steinbrenner một lúc lâu rồi hỏi:

- Mầy vẫn vô lương tâm như vậy hoài sao...

Steinbrenner cười hô hố:

- Có lương tâm lắm chớ, cưng. Lương tâm của tao cùng cải tiến hơn khi
bắt được càng nhiều những thằng như mầy. Tao ngủ ngon lắm. Nhưng có mầy
chắc đêm nào tao cũng phải hầu chuyện một chút… Thôi, đi ngay.

Steiner bị đưa ngay tới phòng thẩm vấn. Một viên chức trọng tuổi phụ trách công việc này.

- Tại sao anh trở về Đức...

- Tôi muốn gặp lại vợ trước khi nàng chết.

- Anh đã gặp những người bạn chánh trị nào ở đây...

- Tôi không gặp ai cả.

- Nên nói thật nhẹ tội hơn.

- Tôi đã nói thật là không gặp ai cả.

- Ai ủy nhiệm anh về...

- Không ai ủy nhiệm.

- Ở nước ngoài anh, gia nhập tổ chức chánh trị nào...

- Tôi không làm chánh trị.

- Anh sống bằng cách gì...

- Bằng sức lao động của tôi. Tôi có giấy thông hành Aùo như ông thấy.

- Anh có bổn phận tiếp xúc với tổ chức nào ở đây...

- Nếu có ý định đó, tôi đã trốn tránh. Trở về thăm vợ, tôi đã đoán được số phận ra sao.

Thẩm vấn viên tiếp tục hỏi khá lâu. Ông ta xem kỹ vé thông hành của
Steiner và bức thơ của vợ anh. Ngước nhìn Steiner, người công chức lại
cúi xuống đọc bức thơ lần nữa.

- Chiều nay, anh sẽ bị giải tới trại giam.

- Thưa ông, tôi có thỉnh nguyện xin được trình bày: Chuyện chẳng có gì
xảy ra nhưng đối với tôi là tất cả. Vợ tôi hãy còn sống. Theo lời bác
sĩ, vợ tôi sẽ còn sống một hoặc hai hôm nữa. Nếu chiều mai không thấy
tôi, vợ tôi biết ngay là tôi đã bị bắt. Tôi không dám xin một ân huệ nào
cho riêng tôi nhưng tôi muốn nàng chết trong bình yên. Do đó, tôi xin
ông cho tôi được ở lại đây một hay hai ngày nữa để được giải tới bịnh
viện vào giờ thăm.

- Không được. Rồi anh trốn thì sao...

- Tôi nhất định không chạy trốn. Phòng bịnh ở tận lầu năm lại không có
lối thoát nào. Chỉ cần có người gác ngoài cửa là đủ. Tôi không xin cho
tôi mà cho người đàn bà sắp chết.

- Anh biết, tôi không có thẩm quyền.

- Nếu ông muốn, ông cứ bảo là cần phải thẩm vấn thêm lần nữa. Ông có thể
bảo là sự gặp gỡ giữa chúng tôi có thể giúp thêm những tài liệu quan
trọng. Ngoài người gác cửa, ông sẽ cho một người y tá đáng tin cậy ở
luôn trong phòng để nghe chúng tôi nói chuyện.

Người công chức suy nghĩ. Ông ta lại giở hồ sơ ra.

- Theo báo cáo thì anh thuộc nhóm số bảy. Anh không khai tên ai cả. Chúng tôi đã có ở đây các tên Muller, Bose và Welldorf.

Steiner không trả lời.

- Anh có đồng ý khai cho chúng tôi hai tên vào chiều mai và chiều mốt không...

- Tôi sẽ khai vào chiều mốt.

- Chắc không...

- Chắc.

Người công chức nhìn Steiner thật lâu:

- Để xem tôi có thể giúp anh được gì. Bây giờ anh trở lại phòng tối.

- Ông có thể cho tôi xin lại lá thơ...

- Lá thơ phải giữ lại trong hồ sơ chớ.

Ông ta cầm lá thơ lên, ngập ngừng một lúc rồi nhún vai:

- Cũng không sao. Trong thơ chẳng có gì đáng chú ý. Anh cầm lấy.

- Cám ơn ông.

Ông công chức nhận chuông gọi người vào dẫn Steiner ra.

- Rất tiếc, nhưng biết làm sao... Tỏ ra nhân đạo là tự chọn con đường xuống địa ngục.

Nắm tay ông ta nện mạnh lên bàn.

Marie tỉnh dậy một lần nữa. Suốt buổi trưa, nàng ở trong trạng thái nửa
mê nửa tỉnh. Bây giờ đã nhận rõ ra khuôn mặt chồng. Nàng run giọng vì sợ
hãi:

- Anh vẫn còn ở đây sao...

- Anh có thể tới chừng nào cũng được, Marie.

- Sao... Anh nói gì...

- Luật đại xá đã được ban hành. Em không phải lo sợ nữa. Anh ở mãi đây với em.

Marie nhìn Steiner với vẻ nghĩ ngợi:

- Anh nói thế để làm em yên lòng, Joseft…

- Không, Marie, lịnh đại xá đã ban hành hôm qua…

Anh quay sang cô y tá đang sắp soạn những dụng cụ trên bàn:

- Có phải đúng vậy không, cô...

Cô y tá đáp nhỏ:

- Đúng!

- Cô vui lòng lại gần đây để vợ tôi có thể nghe rõ hơn.

Người nữ y tá nặng nề bước tới.

- Tôi mới vừa nói xong.

Marie thều thào:

- Cô vui lòng lặp lại.

Không có tiếng trả lời, Marie lại giục:

- Xin cô vui lòng nói rõ hơn.

Người nữ y tá bước tới sát giường, Steiner hỏi:

- Có phải là kể từ hôm qua tôi được ở đây luôn không...

Cô y tá lí nhí:

- Đúng vậy.

- Và tôi sẽ không bao giờ bị bắt nữa...

- Đúng.

- Cám ơn cô.

Steiner nhìn thấy mắt vợ như mờ mịt nhưng Marie không còn đủ sức để khóc nữa.

- Lạy Chúa! Thế là toàn vẹn. Và bây giờ, giữa lúc anh cần đến em thì em lại ra đi…

- Em không ra đi đâu, Marie…

- Em muốn ngồi dậy để cùng đi với anh.

- Chúng mình sẽ cùng đi.

Marie cứ nhìn chằm chặp vào mặt chồng trong khi mặt nàng tái xám như màu
đất. Mái tóc còn sáng chói dưới ánh nắng chiều giờ đã xám xịt màu đêm
như một nguồn sống nào đó vừa tắt đi. Steiner nhận thấy tất cả những báo
hiệu đó mà như chẳng thấy. Anh chỉ biết vợ mình còn thở tức là nàng còn
sống, mà nàng còn sống thì nàng vẫn là Marie của anh.

Bóng tối đã tràn ngập căn phòng và bên ngoài cửa thỉnh thoảng có tiếng ho khan khiêu khích của Steinbrenner.

Hơi thở của Marie ngắn lại, hổn hển từng chập. Chợt một lúc hơi thở như
ngừng lại, chỉ còn nhẹ như gió thoảng rồi tắt ngấm. Steiner vội vàng nắm
lấy hai bàn tay vợ – hai bàn tay lạnh ngắt – anh cũng chết theo nàng.
Lúc đứng lên để đi ra, anh đã hoàn toàn trở thành một người khác lạ,
không cảm giác, một cái vẻ không hồn. Tia nhìn của anh thật dửng dưng.
Ra tới ngoài anh được Steinbrenner đón bằng một câu hăm dọa:

- Mầy đã bắt tụi tao đợi luôn ba tiếng đồng hồ. Chuyện này mình sẽ có dịp nói lại với nhau.

Steiner lạnh lùng:

- Tao không ngạc nhiên đâu, Steinbrenner.

Steinbrenner liếm môi:

- Chắc mầy biết mỗi lần nói chuyện với tao người ta phải gọi là “ông
Thanh tra”. Nhưng mầy có thể tiếp tục mầy tao với tao… Có điều là mầy sẽ
phải trả giá rất đắt bằng máu và nước mắt luôn nhiều tuần.

Họ đi xuống thang lầu. Đêm dịu dàng, tất cả cửa sổ đều mở rộng. Steiner
ngẩng mặt lên, nghĩ ngợi. Thình lình, anh đẩy mạnh Steinbrenner tới sát
một cánh cửa sổ gần đó, nhảy sổ tới và kéo luôn tên bạn bất lương nầy
rơi vào khoảng trống từ lầu cao…

Marill buồn thảm bảo:

- Cậu có quyền nhận món tiền nầy. Steiner đã gởi lại tôi, dặn trao cho cậu và Ruth trong trường hợp anh ta không trở lại.

Kern lắc đầu. Bẩn thỉu, hôi hám và buồn thảm, Kern ngồi với Marill trong
phòng dưới hầm. Anh vừa từ biên giới tới. Kern đã đi từ Dijon tới theo
một đoàn xe vận tải. Anh không thể nào tin được là Steiner đã chết. Kern
nói như với chính mình:

- Anh ấy sẽ trở lại. Steiner sẽ trở lại.

Marill sẵng giọng:

- Anh ta không bao giờ trở lại. Bộ cậu không biết là tình hình đã đen
tối lắm rồi sao mà cứ ngồi đó nhắc mãi “sẽ trở lại”. Anh ta không còn
trở lại. Đây, đọc đi.

Ông ta lấy một bức điện tín nhàu nát đưa cho Kern xem. Bức điện gởi cho
chủ quán Verdun, với con dấu từ Bá Linh chỉ mang một dòng chữ ngắn “chúc
mừng sinh nhật Otto” Kern ngơ ngác nhìn Marill.

- Vậy nghĩa là sao...

- Như vậy có nghĩa là anh ta đã bị bắt. Chúng tôi đã giao ước là trong
trường hợp nầy một người bạn của anh ta sẽ thông báo cho tôi bằng điện
tín với lời lẽ như trên. Thôi, cất mấy tờ giấy bạc bẩn thỉu nầy vào đi.

Ông ta đẩy tiền về phía Kern:

- Đó là hai trăm bốn mươi quan và còn đây nữa.

Marill vừa nói vừa lấy ra hai quyển sổ con ném tới chỗ Kern:

- Đây là hai vé tàu đi từ Bordeaux tới Tây Ban Nha. Chiếc Tacoma. Tàu
khởi hành ngày 18. Ngoài ra cả hai người cũng đã có chiếu khán nhờ sự
can thiệp của Uûy ban cứu trợ dân tị nạn.

Kern sững sờ:

- Nhưng…

Marill lại phát cáu:

- Không nhưng gì cả. Đừng gây khó khăn nữa Kern. Chúng tôi đã khổ sở lắm
rồi. Đây là chuyện ngàn năm một thuở. Mới cánh nay ba hôm, Uûy ban cứu
trợ đã được chính phủ Tây Ban Nha cho biết rằng sẵn sàng đón nhận 150
vạn dân với điều kiện có đủ tiền di chuyển. Chính Klassmannm, phụ trách
vấn đề nầy. Ngay khi được tin chúng tôi đã dành chỗ ngay cho cô cậu…

Ông ta ngừng lại, quay ra bảo cô hầu bàn Alsace:

- Yvonne, cho một ly Kirsh.

Yvonne toan đi thì Marill gọi giật lại:

- Cho hai ly.

Yvonne quay lại mìm cười:

- Ông không nói tôi cũng mang tới hai ly.

- Tốt lắm. Thêm một tâm hồn cao thượng.

Marill nói với Kern:

- Lại thêm một ngạc nhiên nữa cho cậu. Đem vé tàu và giấy chiếu khán tới
trình sở Cảnh sát, người ta sẽ cấp cho cậu giấy phép lưu trú cho tới
ngày xuống tàu. Ngay cả trường hợp nhập cảnh lậu cũng không. Uûy ban cứu
trợ đã nêu vấn đề đó ra và đã được chấp thuận. Mai cậu có thể tới đó.

Yvonne mang tới hai ly, một ly cỡ bình thường và một ly dùng để uống nước đã rót đầy bia. Cô ta chỉ vào ly lớn nói với Marill:

- Ly này của ông. Cũng tính một giá thôi.

- Cám ơn lắm. Cô bé điệu này!

Ông ta uống cạn một hơi nửa ly:

- Uûa! Sao không uống đi, Kern...

Và lần đầu tiên, Marill nhìn thẳng vào mặt Kern:

- Sao chưa khóc...

- Không khóc được nhưng dầu có khóc cũng chẳng làm gì được. Khốn nạn!
Vậy mà tôi cứ nghĩ là Steiner phải trở lại để rồi bây giờ với hai vé tàu
và số tiền nầy trong tay… tôi bỏ đi, bỏ đi để sống an toàn nhờ vào việc
anh ấy không trở lại. Ông có nhận thấy sự bỉ ổi đó không...

- Không. Tôi chẳng nhận thấy gì cả. Hay đó chỉ là những tình cảm nhảm
nhí thôi. Không có gì cần phải hiểu. Vẫn là chuyện muôn đời. Thôi, uống
đi. Hãy uống như chính Steiner đã uống. Mẹ kiếp, bộ cậu tưởng tôi không
có trái tim sao...

Kern uống cạn ly:

- Đã thấy đỡ đôi chút. Cho tôi điếu thuốc, Marill.

Kern hút một hơi dài. Khói thuốc quyện dưới mắt hiện thành khuôn mặt
Steiner. Một khuôn mặt khinh đời, hơi nghiêng về phía trước chập chờn
qua ánh nến trong nah2 giam thành Vienne. Anh còn nghe câu nói của
Steiner đêm ấy”Sao... Cậu bé... ”.

- Ruth đã biết chưa...

- Rồi.

- Ruth đi đâu...

- Không biết. Có lẽ ra văn phòng cứu trợ. Cô ấy không biết cậu về.

- Chính tôi cũng không biết lúc nào mới tới. Ở Tây Ban Nha có làm việc được không...

- Phải có chớ. Nhưng hiện giờ mình không biết việc gì. Người ta bảo đảm là sẽ cấp thẻ cư trú và giấy phép hành nghề.

- Tôi không biết một tiếng Tây Ban Nha nào cả.

- Cứ học là phải biết.

Kern gật đầu. Marill nghiêng mình tới, giọng ông ta nghe khác hẳn:

- Kern, tôi biết là không phải dễ đâu. Nhưng tôi khuyên cậu nên đi. Đừng
suy nghĩ thêm nữa, cứ đi. Hãy rời xa Aâu châu. Thế nào rồi cũng có
chuyện xảy ra ở đây… Một dịp may như thế nầy không bao giờ có được lần
thứ hai. Cậu và Ruth hãy đi đi. Ở đây…

Ông ta uống cạn phần bia còn lại. Kern hỏi:

- Ông sẽ đi với chúng tôi...

- Không.

- Bộ tiền không đủ cho ba người sao. Tôi và Ruth vẫn còn một ít.

- Đó không phải là vấn đề. Tôi phải ở lại đây. Chuyện gì xảy ra cũng được. Đây là những chuyện không bao giờ giải thích được.

- Tôi hiểu.

Marill bỗng đứng lên:

- Ruth tới rồi đấy. Dầu tôi phải ở lại và các người ra đi, các người có hiểu thế nào không...

- Hiểu, Marill.

- Cám ơn Thượng đế!

Ruth đứng bất động trên ngưỡng cửa, rồi nàng chạy nhào tới:

- Kern, anh về tới hồi nào...

- Cách đây nửa giờ.

- Anh đã biết…...

- Biết rồi. Marill vừa mới nói.

Kern nhìn quanh, Marill đã biến mất. Ruth ngập ngừng:

- Anh cũng biết…!

- Biết cả. Thôi đừng nói chuyện đó nữa. Chúng mình ra phố một chút. Anh muốn rời khỏi căn phòng tối ám nầy.

- Phải, mình nên đi ra ngoài.

Ruth và Kern đi về phía Champs - Eùlysees. Trăng lưỡi liềm treo lơ lửng
trên nền trời xanh lục. Không khí như bạc trắng ra, trong suốt và hiền
dịu.

Họ im lặng đi bên nhau. Mãi một lúc lâu sau, Kern chợt hỏi:

- Em có biết Tây Ban Nha ở đâu không...

Ruth lắc đầu:

- Chỉ biết trên bản đồ. Ngay bây giờ em cũng không biết nước Đức ở đâu.

Kern nhìn người yêu và nắm lấy tay nàng:

- Mình phải đi mua một quyển văn phạm để học tiếng Tây Ban Nha.

- Em mới mua hôm qua.

Kern cười:

- Tốt quá. Đây là cơ hội để mình nhìn thấy chân trời, có phải thế không...

Ruth nhè nhẹ gật đầu.

Họ tiếp tục đi, băng ngang qua một công viên. Những mầm non đã bắt đầu
nhô lên trên các cành cây. Aùnh đèn mờ ảo chập chờn như từ dưới đất phụt
lên, leo dài trên các thân cây dẻ như những ngọn ma trơi. Đất trong các
khu vườn đã được xới lên. Mùi đất mới xông pha trộn lẫn mùi với mùi
xăng, dầu bềnh bồng trên đại lộ.

Các luống hoa xuân trong một vài khoảnh vườn quanh quất đó đây đã khoe
màu. Trong cảnh sắc hoàng hôn, hoa tươi vẫn chưa chịu khuất mình. Đó là
giờ công tư sở đều đóng cửa và lưu thông nghẽn chẹt.

Kern dừng lại nhìn Ruth:

- Người đâu mà đông quá!

Ruth nhỏ nhẹ nói theo:

- Vâng, người đâu mà đông quá!
Về Đầu Trang Go down
https://duonghoalac-hoabinh.forumvi.com
Sponsored content



Level: Kinh nghiệm: %
Sinh mệnh: /100
Pháp lực: /100

Bản du ca cuối cùng - Erich Maria Remarque Empty
Bài gửiTiêu đề: Re: Bản du ca cuối cùng - Erich Maria Remarque   Bản du ca cuối cùng - Erich Maria Remarque Icon_minitime

Về Đầu Trang Go down
 

Bản du ca cuối cùng - Erich Maria Remarque

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
HÒA LẠC HÒA BÌNH-EXPRESSWAY :: GIẢI TRÍ :: VĂN HỌC :: Tiểu thuyết-
Chuyển đến